THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2023 

Tỉnh Quảng Bình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) năm 2023 với những thuận lợi, khó khăn đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; tăng trưởng kinh tế thế giới có xu hướng chậm lại; nguy cơ suy thoái kinh tế và các rủi ro về tài chính gia tăng,... Kinh tế trong nước vẫn còn nhiều khó khăn: Sức ép lạm phát; lãi suất gia tăng; giá nhiều yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh cao,… Trong tỉnh, giá xăng, dầu, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao; tiềm lực kinh tế của tỉnh hạn chế; nhiều doanh nghiệp vẫn chưa hồi phục sau thời gian dài bị tác động của dịch COVID-19,… Bên cạnh khó khăn, có những thuận lợi: Nền kinh tế cả nước tiếp tục phục hồi mạnh mẽ, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo; môi trường đầu tư kinh doanh cải thiện góp phần tích cực cho phục hồi và phát triển KT-XH, tạo được sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Trong tỉnh, nền kinh tế trên đà phục hồi, ổn định và đạt kết quả tích cực; dịch COVID-19 được kiểm soát tốt nên các ngành dịch vụ, đặc biệt là ngành du lịch phục hồi và phát triển mạnh mẽ,...

Xác định năm 2023 có ý nghĩa hết sức quan trọng, là năm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2021 - 2025; các sở, ngành, đơn vị, địa phương đã tiếp tục triển khai quyết liệt Kế hoạch hành động số 26/KH-UBND ngày 06/01/2023 thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ và các Nghị quyết của HĐND tỉnh về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH và Dự toán NSNN năm 2023. Nhờ đó, tình hình KT-XH quý III và 9 tháng năm 2023 của tỉnh đã đạt được những kết quả khả quan: Sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá, năng suất và sản lượng lúa vụ Hè Thu tăng so với vụ Hè Thu năm trước; sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì tăng trưởng; du lịch tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao kỷ niệm 78 năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 được tổ chức sôi nổi và ý nghĩa; công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân, an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm và cải thiện; tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo.

Kết quả đạt được trên các lĩnh vực KT-XH trong quý III và 9 tháng năm 2023 như sau:

I. KINH TẾ

Kết quả ước tính một số chỉ tiêu chủ yếu 9 tháng năm 2023:

- Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá so sánh 2010 đạt 21.241,4 tỷ đồng, tăng 6,82% so với cùng kỳ năm trước;

- Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp thuỷ sản theo giá so sánh 2010 đạt 7.990,8 tỷ đồng, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước;

- Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng theo giá so sánh 2010 đạt 23.151,9 tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước; Trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 12.462,9 tỷ đồng, tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước;

- Giá trị sản xuất dịch vụ theo giá so sánh 2010 đạt 19.271,5 tỷ đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước;

- Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân 2022 - 2023 đạt 208.800,4 tấn, tăng 4,7% so với vụ Đông Xuân năm trước;

- Sản lượng lương thực vụ Hè Thu 2023 đạt 98.820,9 tấn, tăng 1,4% so với vụ Hè Thu năm trước;

- Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 64.906,0 tấn, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước;

- Sản lượng thủy sản đạt 77.484,8 tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước;

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 21.128,5 tỷ đồng, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước;

- Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 34.854,6 tỷ đồng, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 1. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Quý III năm 2023


1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Chín tháng năm 2023, sản xuất nông nghiệp triển khai trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi. Hoạt động trồng trọt thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo lịch thời vụ đề ra. Chăn nuôi phát triển ổn định. Sản xuất lâm nghiệp tập trung vào công tác trồng rừng, khai thác gỗ từ rừng trồng, phòng, chống cháy rừng. Sản xuất thủy sản phát triển khá cả về khai thác và nuôi trồng do thời tiết thuận lợi và nhu cầu tiêu thụ tăng.

a) Nông nghiệp

- Trồng trọt

* Cây hàng năm

Ước tính đến ngày 30/9/2023, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh thực hiện 83.647,7 ha, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân thực hiện 47.072,6 ha, giảm 0,8%; vụ Hè Thu thực hiện 36.304,1 ha, tăng 0,6%; vụ Mùa thực hiện 271,0 ha, giảm 28,1% so với cùng kỳ năm trước.

Diện tích gieo trồng một số cây trồng chủ yếu như sau: Cây lúa 53.022,3 ha, bằng cùng kỳ năm trước; cây ngô 4.586,1 ha, tăng 2,9%; cây khoai lang 2.727,1 ha, giảm 8,9%; cây sắn 6.680,0 ha, giảm 0,7%; cây lạc 3.516,0 ha, giảm 10,5%; rau, đậu các loại 7.667,9 ha, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 2. Diện tích gieo trồng cây hàng năm tính đến ngày 30/9/2023

 

Sản xuất vụ Đông Xuân: Triển khai sản xuất vụ Đông Xuân năm nay trong điều kiện thời tiết thuận lợi nên các cây trồng hàng năm phát triển tốt; diện tích gieo trồng có giảm nhẹ, tuy nhiên năng suất và sản lượng nhiều loại cây trồng tăng cao so với vụ Đông Xuân năm trước. Năng suất cây lúa bình quân chung toàn tỉnh đạt 62,52 tạ/ha, tăng 5,1%; sản lượng đạt 183.624,7 tấn, tăng 5,1% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Sản xuất vụ Hè Thu: Sau khi thu hoạch xong lúa vụ Đông Xuân, các địa phương khẩn trương tập trung nhân lực, phương tiện máy móc triển khai sản xuất vụ Hè Thu theo đúng khung lịch thời vụ. Mặc dù điều kiện thời tiết nắng nóng kéo dài, nhưng nhờ có sự dự báo và chuẩn bị trước nên các địa phương đã chủ động triển khai các giải pháp thủy lợi, đảm bảo nguồn nước đáp ứng phục vụ cho gieo trồng. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Hè Thu năm nay thực hiện 36.304,1 ha, tăng 0,6% so với vụ Hè Thu năm trước.

Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu vụ Hè Thu như sau:

- Cây lúa: Diện tích lúa gieo trồng vụ Hè Thu năm 2023 thực hiện 23.376,3 ha, tăng 0,7%; năng suất lúa bình quân chung toàn tỉnh ước đạt 41,36 tạ/ha, tăng 0,7% (Năng suất lúa các địa phương: Thành phố Đồng Hới đạt 57,17 tạ/ha, thị xã Ba Đồn đạt 57,50 tạ/ha, huyện Minh Hóa đạt 51,00 tạ/ha, huyện Tuyên Hóa đạt 53,50 tạ/ha, huyện Quảng Trạch đạt 58,00 tạ/ha, huyện Bố Trạch đạt 48,50 tạ/ha, huyện Quảng Ninh đạt 47,29 tạ/ha, huyện Lệ Thủy đạt 24,47 tạ/ha); ước tính sản lượng lúa toàn tỉnh đạt 96.687,0 tấn, tăng 1,4% so với vụ Hè Thu năm trước.

- Các loại cây trồng khác:

Diện tích: Cây ngô thực hiện 531 ha, giảm 1,1%; khoai lang 448 ha, tăng 1,0%; sắn 6.680,0 ha, giảm 0,6%; lạc 465 ha, bằng năm trước; rau các loại 1.811,6 ha, tăng 3,2%; đậu các loại 903,6 ha, bằng so với vụ Hè Thu năm trước.

Năng suất: Cây ngô đạt 40,11 tạ/ha, giảm 0,5%; khoai lang đạt 58,67 tạ/ha, giảm 0,5%; sắn đạt 187,35 tạ/ha, tăng 0,8%; lạc đạt 18,28 tạ/ha, tăng 0,3%; rau các loại đạt 95,00 tạ/ha, tăng 2,6%; đậu các loại đạt 9,09 tạ/ha, tăng 1,6% so với vụ Hè Thu năm trước.

Sản lượng: Cây ngô 2.130,0 tấn, giảm 1,6%; cây khoai lang 2.628,4 tấn, tăng 0,6%; cây sắn 125.150,0 tấn, tăng 0,1%; cây lạc 850 tấn, giảm 0,3%; cây vừng 188,0 tấn, tăng 0,5%; rau các loại 17.210,9 tấn, tăng 6,0%; đậu các loại 821,4 tấn, tăng 1,7% so với vụ Hè Thu năm trước.

Sản xuất lúa tái sinh năm nay phát triển ổn định trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi nên năng suất và sản lượng tăng nhẹ so với năm trước. Diện tích thu hoạch lúa tái sinh thực hiện 8.766,4 ha, giảm 0,7%; năng suất đạt 19,93 tạ/ha, tăng 0,9%; sản lượng đạt 17.470,3 tấn, tăng 0,2% so với năm trước.

Sản xuất vụ Mùa: Ước tính diện tích gieo trồng lúa vụ Mùa năm 2023 toàn tỉnh thực hiện 271 ha, giảm 28,1% so với vụ Mùa năm trước. Nguyên nhân diện tích gieo trồng lúa vụ Mùa năm nay giảm là do lúa vụ Mùa cho năng suất thấp, hiệu quả kinh tế không cao nên bà con chuyển đổi diện tích sang trồng sắn và keo (giảm chủ yếu ở huyện Bố Trạch, diện tích lúa vụ Mùa ở huyện Bố Trạch giảm 43,8% so với vụ Mùa năm trước). Diện tích lúa vụ Mùa ở các địa phương: Huyện Minh Hóa 135 ha; huyện Bố Trạch 136 ha. Ước tính năng suất lúa vụ Mùa năm nay đạt 14,21 tạ/ha, tăng 16,9% so với vụ Mùa năm trước (nguyên nhân do thời tiết đầu vụ Mùa năm nay thuận lợi hơn so với năm trước).

* Cây lâu năm

Nhìn chung 9 tháng năm 2023, diện tích các loại cây lâu năm đều giảm, nguyên nhân chủ yếu là một số loại cây lâu năm không cho hiệu quả kinh tế cao nên người nông dân chuyển sang trồng các loại cây lâm nghiệp, cây hàng năm; riêng cây tiêu bị bệnh vàng lá chết chậm nên nhiều hộ đã chặt bỏ và chưa trồng lại dẫn đến sản lượng tiêu giảm. Ước tính đến cuối tháng 9, diện tích cây lâu năm thực hiện 17.613,6 ha, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cây cao su: Diện tích 11.944,6 ha, giảm 0,5%; sản lượng 5.299,0 tấn, giảm 1,0%; cây hồ tiêu: Diện tích 1.058,0 ha, giảm 4,9%; sản lượng 890,0 tấn, giảm 6,3% so với cùng kỳ năm trước.

- Chăn nuôi

Sản xuất chăn nuôi 9 tháng năm 2023 phát triển khá ổn định. Giá lợn hơi tăng là tín hiệu đáng mừng cho người chăn nuôi tích cực tái đàn; tuy nhiên giá thức ăn vẫn ở mức cao khiến người chăn nuôi gặp nhiều khó khăn. Đàn trâu, bò giảm so với cùng kỳ; nguyên nhân chủ yếu là do đàn bò của Công ty TNHH chăn nuôi Hòa Phát Quảng Bình đã xuất hết nhưng chưa tái đàn; giá trâu hơi giảm, hiệu quả kinh tế không cao dẫn đến người nuôi chưa tái đàn trở lại. Chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh. Dịch bệnh được kiểm soát, công tác tiêm phòng thú y, vệ sinh môi trường được chú trọng. Theo đó, sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý III và 9 tháng năm 2023 tăng khá so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý III năm 2023 đạt 19.601,0 tấn, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 479,0 tấn, giảm 2,6%; thịt bò 2.583,0 tấn, giảm 8,6%; thịt lợn 10.419,0 tấn, tăng 12,3%; thịt gia cầm 6.120,0 tấn, tăng 12,1% (trong đó: Thịt gà 5.279,0 tấn, tăng 12,4%) so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng

 

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng năm 2023 đạt 64.906,0 tấn, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 1.429,0 tấn, giảm 1%; thịt bò 7.293,0 tấn, giảm 2,9%; thịt lợn 36.204,0 tấn, tăng 4,5%; thịt gia cầm 19.980,0 tấn, tăng 14,2% (trong đó: Thịt gà 16.180,0 tấn, tăng 14,5%) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 9 tháng tăng cao là do trong thời gian qua không có dịch bệnh lớn xảy ra trên đàn gia cầm, cộng với nhu cầu tiêu thụ tăng cao nhằm phục vụ cho tiệc cưới, hỏi, nhà hàng, khách sạn, khách du lịch,…

Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm:

- Dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay, 10/10 xã đã công bố hết dịch theo quy định. Lũy kế đến ngày 29/8/2023, dịch tả lợn châu Phi xảy ra tại 43 hộ/15 thôn/10 xã/4 huyện (Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Bố Trạch) làm 618 con lợn buộc tiêu hủy với trọng lượng là 36.711 kg.

- Bệnh Viêm da nổi cục, Lở mồm long móng, Cúm gia cầm, Tai xanh lợn,... không xảy ra [1].

b) Lâm nghiệp

Sản xuất ngành lâm nghiệp trong 9 tháng năm 2023 được duy trì và phát triển khá ổn định. Công tác trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ được quan tâm, công tác chăm sóc, bảo vệ, phục hồi vốn rừng, làm giàu rừng triển khai đúng kế hoạch.

Tháng 9, thời tiết chuyển mát mẻ, mưa lớn vào đầu tháng trên phạm vi toàn tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng rừng mới tập trung. Diện tích rừng trồng mới tập trung quý III/2023 ước đạt 2.034,0 ha, tăng 3,7%; 9 tháng ước đạt 5.740,0 ha, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 4. Sản xuất lâm nghiệp 9 tháng năm 2023

 

Ước tính sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng quý III đạt 177.080,0 m3, tăng 3,0%; luỹ kế 9 tháng đạt 399.190,0 m3, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác quý III ước đạt 174.307,0 ste, tăng 2,0%; luỹ kế 9 tháng ước đạt 313.496,0 ste, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước.

Từ đầu tháng 9 đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng. Luỹ kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ cháy rừng, tăng 10 vụ so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị cháy 69,66 ha, tăng 66,39 ha so với cùng kỳ năm trước [2].

Công tác bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm, triển khai kịp thời công tác tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân vùng có rừng; tổ chức tập huấn công tác phòng chống, cháy rừng cho các chủ rừng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát phá rừng trái phép.

c) Thủy sản

Sản xuất thuỷ sản 9 tháng năm 2023 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi. Khai thác thuỷ sản tăng so với cùng kỳ năm trước do nhu cầu tiêu thụ tăng, thời tiết thuận lợi cho ngư dân tích cực vươn khơi bám biển. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển khá ổn định trong thời gian qua; các ngành chức năng thường xuyên theo dõi, kiểm tra và quản lý môi trường ở các vùng nuôi, nên dịch bệnh xảy ra không đáng kể. Theo đó, sản lượng thuỷ sản 9 tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thuỷ sản quý III đạt 31.706,7 tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá 25.939,3 tấn, tăng 4,8%; tôm 2.499,6 tấn, tăng 1,9%; thủy sản khác 3.267,8 tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thuỷ sản 9 tháng đạt 77.484,8 tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá 63.896,4 tấn, tăng 5,0%; tôm 4.840,2 tấn, tăng 2,1%; thủy sản khác 8.748,2 tấn, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 5. Sản lượng thủy sản

a- Khai thác

Quý III năm 2023, thời tiết thuận lợi, giá các mặt hàng thuỷ sản duy trì ổn định, nhu cầu tiêu dùng tăng, bà con ngư dân tăng cường vươn khơi bám biển; hoạt động khai thác xa bờ được tăng cường cả về thời gian và mở rộng ngư trường nên hoạt động khai thác thuỷ sản đạt kết quả khá.

Ước tính sản lượng khai thác thủy sản quý III đạt 26.599,6 tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 22.714,3 tấn, tăng 5,0%; tôm đạt 678,5 tấn, tăng 3,0%; thủy sản khác đạt 3.206,8 tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính sản lượng khai thác thủy sản 9 tháng đạt 67.985,0 tấn, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 57.917,0 tấn, tăng 5,2%; tôm đạt 1.500,0 tấn, tăng 3,2%; thuỷ sản khác 8.568,0 tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước.

- Nuôi trồng

Từ đầu năm đến nay, thời tiết trên địa bàn tỉnh khá thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Ngành Nông nghiệp đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc biệt chú trọng công tác kiểm tra, kiểm soát dịch bệnh, tăng cường kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc, số lượng và chất lượng con giống. Các hộ nuôi đã tuân thủ khung lịch thời vụ và các khuyến cáo của ngành chức năng với quyết tâm thực hiện thắng lợi vụ nuôi trồng thủy sản năm 2023; đặc biệt tiếp tục tập trung vào những sản phẩm chủ lực như nuôi tôm thẻ, tôm sú, cá lóc, cá trắm, cá rô phi.

Ước tính sản lượng thủy sản nuôi thu hoạch quý III đạt 5.107,1 tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 3.225,0 tấn, tăng 3,2%; tôm đạt 1.821,1 tấn, tăng 1,5%; thủy sản khác đạt 61,0 tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thủy sản nuôi thu hoạch 9 tháng đạt 9.499,8 tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 5.979,4 tấn, tăng 3,1%; tôm đạt 3.340,2 tấn, tăng 1,6%; thủy sản khác 180,2 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước.

2. Công nghiệp

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh quý III/2023 tiếp tục duy trì tăng trưởng. Tuy nhiên, mức tăng thấp hơn so với các quý trước. Cụ thể, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý III tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I: +7,5%; quý II: +6,8%). Nguyên nhân chính là do tình hình kinh tế thế giới những tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn, đơn hàng xuất khẩu giảm, nhu cầu tiêu dùng giảm sút trong khi sản lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp tăng cao trong những tháng đầu năm 2023 khiến nhiều doanh nghiệp phải giảm sản lượng sản xuất để ưu tiên tiêu thụ hàng tồn kho đã ảnh hưởng đến mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp trong quý III và 9 tháng năm 2023.

Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp quý III năm 2023 (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 4.313,5 tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023 giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp đạt 12.462,9 tỷ đồng, tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng đạt 551,9 tỷ đồng, giảm 3,9%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 11.300,0 tỷ đồng, tăng 7,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 529,6 tỷ đồng, tăng 19,6%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải đạt 81,4 tỷ đồng, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp quý III năm 2023 tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 4,7%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,7%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 19,5%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 4,4%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 18,7%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 6. Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2023

 

Chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2023 của một số ngành cấp 2 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 67,5%; sản xuất đồ uống tăng 61,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 26,3%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 19,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 18,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 19,3% (nguyên nhân một số ngành công nghiệp tăng cao so với cùng kỳ là do tại thời điểm tháng 9/2022 một số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động hoặc sản xuất với sản lượng thấp do không có đơn hàng, sản phẩm tiêu thụ khó khăn). Một số ngành cấp 2 giảm so với cùng kỳ năm trước: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn ghế) giảm 14,1%; sản xuất trang phục giảm 16,3%; khai thác quặng kim loại giảm 39,7%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất cộng dồn đến cuối tháng 9 năm 2023 so với cùng kỳ năm trước: Quặng titan đạt 33,6 nghìn tấn, giảm 39,7%; đá xây dựng đạt 2,3 triệu m3, giảm 5,8%; cao lanh đạt 67,3 nghìn tấn, tăng 13,7%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 17,5 nghìn tấn, giảm 9,6%; tinh bột sắn đạt 5,7 nghìn tấn, tăng 58,1%; bia đóng chai đạt 4,2 triệu lít, tăng 136,6%; nước khoáng đạt 1,6 triệu lít, giảm 1,5%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 4,9 triệu cái, giảm 8,3%; áo sơ mi đạt 7,2 triệu cái, giảm 29,9%; dăm gỗ đạt 265,0 nghìn tấn, giảm 17,2%; ván ép từ gỗ đạt 25,8 nghìn m3, giảm 44,6%; cao su tổng hợp đạt 1,2 nghìn tấn, tăng 41,2%; kính cường lực đạt 2,2 nghìn tấn, tăng 7,5%; clinker thành phẩm đạt 1,9 triệu tấn, giảm 15,9%; xi măng đạt 1,2 triệu tấn, tăng 3,7%; điện gió đạt 415,1 triệu kwh, tăng 28,4%; điện thương phẩm đạt 864 triệu kwh, tăng 3,6%; nước máy thương phẩm đạt 10.963 nghìn m3, tăng 7,8%.

3. Vốn đầu tư

Trong quý III và 9 tháng năm 2023, cùng với công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt, tập trung tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch, xử lý các điểm nghẽn trong thủ tục đầu tư, xây dựng cơ bản và công tác đền bù giải phóng mặt bằng, đặc biệt là việc đôn đốc triển khai các dự án đầu tư lớn, trọng điểm trên địa bàn tỉnh có tính kết nối, tác động lan tỏa tới sự phát triển liên vùng và địa phương, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, nhiều dự án lớn cũng đang tiếp tục được các chủ đầu tư, đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ thực hiện; nhiều công trình đầu tư xây dựng của khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình cũng được khởi công xây dựng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương trong thời gian qua.

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn: Vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh trong quý III năm 2023 ước tính đạt 8.172,3 tỷ đồng, tăng 14,9% so với quý trước và tăng 14,0% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh đạt 21.128,5 tỷ đồng, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước đạt 5.258,0 tỷ đồng, tăng 37,2%; vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực ngoài nhà nước đạt 15.814,1 tỷ đồng, tăng 2,3%; vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 56,4 tỷ đồng, giảm 46,6% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 7. Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý 9 tháng năm 2023

 

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý: Quý III năm 2023 vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý ước tính đạt 1.256,7 tỷ đồng, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý đạt 3.451,3 tỷ đồng, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn NSNN cấp tỉnh đạt 2.272,5 tỷ đồng, tăng 8,3%; vốn NSNN cấp huyện đạt 691,7 tỷ đồng, tăng 13,6%; vốn NSNN cấp xã đạt 487,1 tỷ đồng, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước.

4. Thương mại, dịch vụ

a) Tổng mức bán lẻ hàng hoá

Chín tháng năm 2023, hoạt động thương mại tiếp tục phát triển và tăng trưởng cao. Lượng cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Bên cạnh đó, ngành du lịch Quảng Bình đã thu hút đông đảo lượng khách tham quan nghỉ dưỡng và mua sắm hải sản, đồng thời các ngành dịch vụ phát triển mạnh góp phần làm cho doanh thu tổng mức bán lẻ hàng hóa quý III và 9 tháng năm 2023 tăng cao so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa quý III/2023 ước đạt 11.622,6 tỷ đồng, giảm 0,3% so với quý trước và tăng 9,9% so với cùng kỳ; các nhóm hàng hóa tăng cao so với cùng kỳ đó là: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 4.326,7 tỷ đồng, tăng 13,9%; nhóm may mặc ước đạt 1.477,5 tỷ đồng, tăng 13,6%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 1.992,3 tỷ đồng, tăng 10,7%; nhóm nhiên liệu khác ước đạt 67,5 tỷ đồng, tăng 12,7%; nhóm xăng, dầu các loại ước đạt 1.085,9 tỷ đồng, tăng 7,1%.

Tính chung 9 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 34.854,6 tỷ đồng, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá, tăng 10,5%). Hầu hết nhóm ngành hàng đều tăng trên 10% so với cùng kỳ, trừ nhóm ô tô các loại và phương tiện đi lại giảm do sức mua giảm bởi tác động từ thị trường chứng khoán, bất động sản cũng như cho vay tiêu dùng chưa phục hồi. Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 13.089,0 tỷ đồng, chiếm thị phần lớn và tăng 16,1% so với cùng kỳ, đóng góp tăng cao nhất (5,9 điểm phần trăm) trong tổng số tăng chung của tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Hình 8. Tổng mức bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2023

 

b) Dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành

Chín tháng năm 2023, nhiều hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch được triển khai cùng với những sự kiện văn hoá - du lịch nổi bật đã thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Những dấu ấn của của du lịch Quảng Bình có thể kể đến như: chuỗi hoạt động Chào đón năm mới 2023 tổ chức tại thị trấn Phong Nha và thành phố Đồng Hới; khai trương homestay thích ứng thời tiết, hỗ trợ cộng đồng ở huyện Minh Hóa; ra mắt sản phẩm du lịch Trải nghiệm lái xe địa hình khám phá cảnh quan, thiên nhiên tại rừng Lim tại rừng Lim thôn 4, xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa”Khám phá thiên nhiên thác Mụ Mệ, vườn Địa Đàng, hang Vàng và thác Lụa tại xã Lâm Thủy, huyện Lệ Thủy”; khai trương Khu nghỉ dưỡng và phục hồi chức năng suối nước nóng Bang (Bang Onsen Spa&Resort) tại xã Kim Thủy, huyện Lệ ThủyLễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang;… Do đó, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành quý III và 9 tháng năm 2023 tăng cao so với cùng kỳ.

- Dịch vụ lưu trú:

Doanh thu dịch vụ lưu trú quý III/2023 ước tính đạt 188,3 tỷ đồng, tăng 9,5% so với quý trước, tăng 8,9% so với cùng kỳ; tính chung 9 tháng năm 2023 đạt 454,3 tỷ đồng, tăng 34,6% so với cùng kỳ.

Số lượt khách lưu trú quý III/2023 ước tính đạt 553.437 lượt khách, tăng 7,3% so với quý trước, tăng 8,7% so với cùng kỳ; 9 tháng năm 2023 đạt 1.362.970 lượt khách, tăng 37,1% so với cùng kỳ.

Ngày khách quý III/2023 ước tính đạt 591.232 lượt khách, tăng 7,9% so với quý trước, tăng 9,1% so với cùng kỳ; 9 tháng năm 2023 đạt 1.446.239 ngày khách, tăng 38,6% so với cùng kỳ.

- Dịch vụ ăn uống:

Doanh thu dịch vụ ăn uống quý III/2023 ước tính đạt 1.233,7 tỷ đồng, tăng 6,7% so với quý trước và tăng 4,7% so với cùng kỳ; 9 tháng đầu năm 2023 đạt 3.187,0 tỷ đồng, tăng 16,1% so với cùng kỳ.

Hình 9. Dịch vụ lưu trú, ăn uống 9 tháng năm 2023

 

- Du lịch lữ hành:

Doanh thu hoạt động lữ hành quý III/2023 ước tính đạt 153,0 tỷ đồng, tăng 27,8% so với quý trước và tăng 6,5% so với cùng kỳ; tính chung 9 tháng năm 2023 đạt 365,0 tỷ đồng, tăng 38,9% so với cùng kỳ.

Số lượt khách du lịch lữ hành quý III/2023 ước tính đạt 251.625 lượt khách, tăng 31,3% so với quý trước, tăng 13,4% so với cùng kỳ; tính chung 9 tháng năm 2023 đạt 595.538 lượt khách, tăng 53,7% so với cùng kỳ.

Số ngày khách du lịch lữ hành quý III/2023 ước tính đạt 282.855 ngày khách, tăng 30% so với quý trước, tăng 16,1% so với cùng kỳ; tính chung 9 tháng năm 2023 đạt 665.247 ngày khách, tăng 59,2% so với cùng kỳ.

Hình 10. Du lịch lữ hành 9 tháng năm 2023

 

c) Dịch vụ khác

Ngành du lịch phát triển kéo theo các hoạt động các ngành dịch vụ đi kèm tăng cao so cùng kỳ, như dịch vụ cho thuê phương tiện đi lại, vui chơi, giải trí và các dịch vụ khác. Riêng nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản có mức giảm sâu do chính sách tài khóa, thắt chặt tín dụng làm cho thanh khoản của thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi.

Doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ quý III/2023 ước tính đạt 535,3 tỷ đồng, tăng 1,1% so với quý trước và tăng 7,1% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2023, doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ đạt 1.585,2 tỷ đồng, tăng 0,1% so với cùng kỳ.

Các nhóm ngành dịch vụ hầu hết đều tăng so với cùng kỳ, chỉ riêng nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm mạnh 30,2% đã tác động giảm 0,2 điểm phần trăm trong tổng số tăng chung của nhóm các ngành kinh doanh dịch vụ. Cụ thể: Nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 20,2%; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 8,6%; nhóm dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 13,7%; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 20,2% so với cùng kỳ,…

d) Hoạt động vận tải

Hoạt động vận tải 9 tháng năm 2023 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, cả về vận tải hành khách và vận tải hàng hóa (do những tháng đầu năm 2022 tỉnh ta đang chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19). Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành du lịch, dịch vụ, đặc biệt trong mùa du lịch cao điểm tháng 7, tháng 8; khai trương dịch vụ taxi Xanh SM (dòng xe điện VinFast) tại Quảng Bình; mặt khác, trong quý III nhu cầu vận tải hàng hóa cung cấp nguyên, vật liệu cho các công trình xây dựng bước vào thời kỳ đẩy nhanh tiến độ nhằm hoàn thành trước mùa mưa bão nên hoạt động vận tải quý III tăng so với quý trước.

Tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý III/2023 ước đạt 1.382,4 tỷ đồng, tăng 6,1% so với quý trước và tăng 10,0% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2023, đạt 4.059,4 tỷ đồng, tăng 15,5% so với cùng kỳ; trong đó, vận tải hành khách đạt 657,6 tỷ đồng, tăng 11,0%; vận tải hàng hóa đạt 3.075 tỷ đồng, tăng 16,8%; dịch vụ hổ trợ vận tải đạt 326,8 tỷ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ.

Tổng số hành khách vận chuyển quý III năm 2023 ước tính đạt 8,5 triệu hành khách, tăng 2,7% so với quý trước và tăng 4,1% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển quý III năm 2023 ước tính đạt 390,5 triệu hành khách.km, tăng 2,9% so với quý trước và tăng 3,1% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2023, tổng số hành khách vận chuyển đạt 25,6 triệu hành khách, tăng 13,0% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển đạt 1.155,5 triệu hành khách.km, tăng 11,1% so với cùng kỳ.

Hình 11. Doanh thu hoạt động vận tải 9 tháng năm 2023

 

Ước tính quý III/2023, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 8,7 triệu tấn, tăng 5,5% so với quý trước và tăng 13,6% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 598,2 triệu tấn.km, tăng 6,1% so với quý trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2023, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 25,7 triệu tấn, tăng 17,7% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 1.784,9 triệu tấn.km, tăng 14,8% so với cùng kỳ.

II. XÃ HỘI

1. Y tế

Hoạt động khám chữa bệnh trong 9 tháng năm 2023 hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn về khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng tiến độ. Ước tính 9 tháng năm 2023, các cơ sở y tế nhà nước đã khám chữa bệnh cho 870.762 lượt người; trong đó: tuyến tỉnh 60.128 lượt người, tuyến huyện 314.526 lượt người, tuyến xã 496.108 lượt người. Các cơ sở y tế đã tổ chức phục vụ kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh cho Nhân dân, thực hiện tốt công tác điều trị, cách ly đối với các đối tượng có nguy cơ; số xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí Quốc gia về y tế tính đến nay là 149/151 (đạt tỷ lệ 98,68%).

Tình hình các bệnh truyền nhiễm đều được kiểm soát tốt, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh chỉ đạo sát sao các sở, ban, ngành, đoàn thể, các UBND huyện, thị xã, thành phố trong công tác phòng, chống dịch bệnh, nhờ đó sức khỏe người dân được đảm bảo. Hiện nay, tình hình dịch bệnh COVID-19 trên địa bàn tỉnh được kiểm soát tốt, các biện pháp phòng, chống dịch vẫn thực hiện nghiêm không để dịch bệnh có nguy cơ bùng phát.

Theo báo cáo của Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, tính đến thời điểm 6h00 ngày 05/9/2023, toàn tỉnh có 2.049.292 liều vắc xin đã được tiêm, trong đó 675.491 người đã tiêm 2 mũi; 151.727 người đã tiêm mũi bổ sung; 408.207 người đã tiêm mũi nhắc lại 1 (mũi 3); 95.302 người đã tiêm mũi nhắc lại 2 (mũi 4). Số ca mắc COVID-19 cộng dồn từ đầu năm đến 06h00 ngày 05/9/2023 là 1.049 ca. Số ca tử vong cộng dồn: 0.

2. Giáo dục và đào tạo

Năm học 2022-2023, ngành Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) đã gặt hái được nhiều kết quả nổi bật trên các lĩnh vực công tác. Quy mô, mạng lưới trường lớp ở các cấp học được sắp xếp hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Ngành GD&ĐT đã tập trung đẩy mạnh thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) 2018, xem đây là nội dung quan trọng để đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo tinh thần Nghị quyết số 29/NQ-TW, ngày 04/01/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Năm học qua, ngành tiếp tục tổ chức rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non (GDMN) và phổ thông bảo đảm chất lượng, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về GD&ĐT. Ngành GD&ĐT tiếp tục chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ về giáo dục chính trị và công tác học sinh. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới GD&ĐT.

Trong năm học 2022-2023, các hội thi, các hoạt động lớn của Ngành được tổ chức có chất lượng và đạt kết quả tốt. Đặc biệt, ngành triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 6, lớp 7, lớp 10 có chất lượng học sinh đáp ứng yêu cầu về phẩm chất, năng lực theo từng khối lớp; duy trì đạt chuẩn phổ cập GDMN cho trẻ 5 tuổi, tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở mức độ 3, duy trì đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.

Tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) và hoàn thành công tác chấm thi, chấm phúc khảo bài thi tốt nghiệp năm 2023 an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế; Điểm trung bình của tất cả các môn là 6,365 (xếp thứ 35/63 tỉnh/thành phố, tăng 03 bậc so với năm 2022, tăng 14 bậc so với năm 2021); Có 03/09 môn thi có điểm trung bình cao hơn điểm trung bình toàn quốc (Vật lí, Hoá học, Lịch sử); Có 159 bài thi/môn thi đạt điểm 10 (tăng 85 bài thi/môn thi so với năm 2022, xếp thứ 36/63 tỉnh/thành phố);

Năm học 2023-2024, toàn ngành Giáo dục tiếp tục thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 với chủ đề năm học là: “Đoàn kết, kỷ cương, sáng tạo, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”; ngành Giáo dục Quảng Bình tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết Đại hội XVII của Đảng bộ tỉnh, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2246/QĐ-UBND ngày 11/8/2023 ban hành khung kế hoạch thời gian năm học 2023-2024 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên. Theo đó các Trường bám sát khung kế hoạch để triển khai thực hiện đúng thời gian quy định. Sở GD&ĐT đã ban hành Công văn số 1812/SGDĐT-VP hướng dẫn các đơn vị, trường học tổ chức khai giảng năm học 2023-2024. Theo đó, toàn tỉnh tổ chức Lễ Khai giảng năm học 2023-2024 bắt đầu vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 05/9/2023, có trên 233.500 học sinh các trường học, cơ sở giáo dục (mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên) trên địa bàn tỉnh bước vào năm học mới. Riêng đối với cấp học mầm non, các đơn vị, trường học tổ chức khai giảng dưới hình thức "Ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường" linh hoạt, sáng tạo về hình thức lẫn nội dung phù hợp với tâm sinh lý của bé, điều kiện thực tế của nhà trường.

Công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng được các cơ sở giáo dục triển khai theo tinh thần tự chủ, đúng quy định của Luật Giáo dục đại học, với các phương thức tuyển sinh khác nhau như sử dụng kết quả Kỳ thi tốt nghiệp THPT, kết quả học THPT (học bạ),… hoặc bổ sung các cách đánh giá khác để tuyển sinh cho phù hợp.

Trong năm học 2023-2024, chỉ tiêu tuyển sinh Trường Đại học Quảng Bình là 675 chỉ tiêu hệ đại học, cao đẳng hệ chính quy; trong đó, hệ đại học 675 chỉ tiêu, cao đẳng sư phạm 0 chỉ tiêu. Hiện tại, Trường Đại học Quảng Bình tiếp tục thông báo tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2023, thời gian nhận hồ sơ theo quy định chung của Bộ GD&ĐT.

3. Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao

Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao trong 9 tháng năm 2023 diễn ra sôi nổi, lành mạnh và tiết kiệm. Các hoạt động tuyên truyền bề nổi thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh và các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước được chú trọng đẩy mạnh.

Ngày 21/8/2023, Ban Tổ chức Cuộc thi sáng tác Biểu trưng (logo) tỉnh Quảng Bình đã ban hành thông báo Thể lệ Cuộc thi. Thông qua Cuộc thi để lựa chọn 01 logo thể hiện được đặc trưng của tỉnh để sử dụng chính thức trong các hoạt động thông tin tuyên truyền; phục vụ các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, công tác đối nội, đối ngoại của tỉnh; góp phần quảng bá hình ảnh về mảnh đất và con người Quảng Bình đến bạn bè trong và ngoài nước. 

Thiết thực chào mừng kỷ niệm 78 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02/9, các huyện, thị xã, thành phố đã tiến hành treo băng rôn, khẩu hiệu, cờ các loại. Huyện Quảng Ninh, huyện Lệ Thủy, Thị xã Ba Đồn tổ chức Lễ hội đua thuyền truyền thống thu hút đông đảo Nhân dân và du khách tham gia; Thành phố Đồng Hới tổ chức giải đua xe đạp; huyện Bố Trạch tổ chức giải bóng chuyền nam. Các hoạt động chào mừng đã mang đến bầu không khí vui tươi trong Nhân dân, tạo khí thế sôi nổi trong ngày Tết Độc lập.

Chương trình nghệ thuật với chủ đề “Kiến Giang khúc hát tự hào” diễn ra tối 01/9/2023 là điểm nhấn nghệ thuật nhân dịp kỷ niệm 78 ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 06 năm Hò khoan Lệ Thủy và 04 năm Lễ hội đua, bơi thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Chương trình gồm 12 tiết mục ca múa nhạc ca ngợi quê hương, đất nước, con người Quảng Bình và các điệu hò khoan Lệ Thủy, được dàn dựng công phu, thu hút đông đảo Nhân dân và du khách đến xem.

Thể thao phong trào 9 tháng năm 2023 diễn ra sôi nổi với nhiều giải đấu hấp dẫn, các giải đấu đã cổ vũ, duy trì phong trào luyện tập các môn thể thao trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Trong quý III nổi bật với các giải đấu: giải vô địch Karatedo các câu lạc bộ Quảng Bình mở rộng lần thứ II năm 2023 tranh cup Tâm Việt miền Trung; giải vô địch bóng đá tỉnh Quảng Bình năm 2023, tranh Cúp Huda; giải Grand Marathon Đồng Hới năm 2023; giải Cầu lông câu lạc bộ tỉnh Quảng Bình năm 2023; giải khiêu vũ thể thao, đồng diễn dân vũ, Zumba Fitness, nhảy hiện đại, Aerobic Fitness tỉnh Quảng Bình mở rộng lần thứ II năm 2023.

  Thể thao thành tích cao đã đạt được những thành tựu nổi bật, lũy kế từ đầu năm đến nay, các đội tuyển của tỉnh tham gia thi đấu 15 giải đạt được 165 huy chương các loại (39 HCV, 50 HCB, 76 HCĐ), trong đó có 8 huy chương quốc tế (5 HCV, 1 HCB, 2 HCĐ).

4. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Trật tự an toàn xã hội 8 tháng năm 2023 luôn được giữ vững, ổn định. Lũy kế 8 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 81 vụ tai nạn giao thông, tăng 10 vụ so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: đường bộ 79 vụ, tăng 8 vụ so với cùng kỳ; đường sắt 02 vụ, tăng 02 vụ so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 44 người, giảm 02 người so với cùng kỳ; trong đó: đường bộ chết 42 người, giảm 04 người so với cùng kỳ; đường sắt 02 người tăng 02 người so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 61 người, tăng 04 người so với cùng kỳ; trong đó: đường bộ bị thương 61 người, tăng 04 người so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2022.

5. Tình hình nổi bật khác về xã hội

a) Lao động việc làm

Tính chung 9 tháng, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho khoảng 15.500 lao động, đạt 83,7% kế hoạch năm, trong đó có trên 3.200 lao động được tuyển chọn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Công tác đào tạo nghề từng bước được nâng cao về chất lượng và gắn với yêu cầu thị trường, giảm thiểu chi phí cho hoạt động đào tạo, đào tạo lại của của doanh nghiệp.

Từ đầu năm đến nay, Trung tâm Dịch vụ việc làm đã tổ chức 52 phiên giao dịch việc làm; có 21.888 lượt người lao động được tư vấn về việc làm, học nghề, bảo hiểm thất nghiệp, hợp đồng lao động, các chế độ chính sách về lao động; giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng cho 3.349 người; đào tạo cho học viên các lớp học ngoại ngữ, các lớp pha chế đồ uống,… cho 916 học viên.

b) Công tác an sinh xã hội

Đời sống các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh được cải thiện. Từ ngày 01/7/2023, áp dụng tăng mức lương cơ sở lên 1,8 triệu đồng/tháng cho 9 nhóm đối tượng. Do đó đã góp phần ổn định hơn về đời sống vật chất, tinh thần, yên tâm trong công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trên địa bàn tỉnh.

Công tác an sinh xã hội luôn được sự quan tâm và hưởng ứng tích cực của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương; các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hảo tâm trong và ngoài tỉnh; thu hút đầu tư sản xuất kinh doanh tạo việc làm mới đạt kết quả tích cực.

Tóm lại, KT-XH quý III và 9 tháng năm 2023 của tỉnh đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy vậy, vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập: Kinh tế của tỉnh không có nhiều dư địa để duy trì mức tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo; Quy mô sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp còn nhỏ; Một số ngành như sản xuất trang phục, chế biến gỗ, khai thác quặng kim loại gặp nhiều khó khăn do đơn hàng xuất khẩu giảm, chi phí vật liệu tăng cao, nhiều cơ sở cắt giảm lao động so với cùng kỳ; Hầu hết các dự án đầu tư phát triển công nghiệp đều chậm tiến độ so với chủ trương đầu tư được phê duyệt; Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn hạn chế, nhất là các điểm mua sắm, vui chơi, giải trí, khu nghỉ dưỡng cao cấp; Áp lực lạm phát tăng cao, giá xăng dầu, vật tư, nguyên vật liệu đầu vào tiếp tục ở mức cao ảnh hưởng lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, hoạt động xây dựng, đầu tư công; Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển KT-XH; Một số dự án đang triển khai gặp khó khăn trong việc huy động vốn, vướng mắc GPMB, vướng mắc thủ tục pháp lý. Do đó, để hoàn thành tốt các chỉ tiêu KT-XH năm 2023, Cục Thống kê đề xuất một số giải pháp sau đây:

- Quyết liệt triển khai đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết, nhiệm vụ, giải pháp của Chính phủ, Tỉnh ủy và UBND tỉnh về phát triển KT-XH năm 2023; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, đẩy nhanh Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế. Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, tăng cường thu hút đầu tư xã hội nhằm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH theo hướng đồng bộ, từng bước hiện đại.

- Tăng cường công tác tư vấn, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động; thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Nâng cao hiệu quả kết nối cung cầu lao động - việc làm, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực trong ngành du lịch.

- Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, công trình đầu tư công; đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công. Tích cực triển khai công tác giải phóng mặt bằng và các công tác phối hợp triển khai Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 đoạn qua tỉnh Quảng Bình đảm bảo tiến độ. Đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm như Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch, Nhà máy sản xuất viên nén năng lượng, Cảng Quốc tế Hòn La,...

- Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án công nghiệp trọng điểm đang triển khai. Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, hướng tới các nhà đầu tư có thương hiệu, có năng lực, có khả năng triển khai thực hiện dự án và ưu tiên các dự án có mục tiêu góp phần phục hồi kinh tế. Kêu gọi các dự án phát triển công nghiệp chế biến, các dự án quan trọng vào các Khu công nghiệp, Khu kinh tế.

- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án Chuyển đổi số, chính quyền điện tử và đô thị thông minh. Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; thực hiện nghiêm quy chế làm việc, kỷ luật phát ngôn; công khai, minh bạch, tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng.

- Tiếp tục tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác an sinh xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân. Triển khai hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Tiếp tục đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm; thực hiện quyết liệt, kiên quyết trấn áp, triệt phá tội phạm ma túy, tội phạm hình sự nghiêm trọng, tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu “xã hội đen”, “tín dụng đen”, các loại tội phạm gây bức xúc xã hội./.

 

 [1] Nguồn: Báo cáo số 420/BC-CNTY ngày 31/8/2023 của Chi cục Chăn nuôi và Thú y

[2] Nguồn: Báo cáo số 934/BC-CCKL ngày 30/8/2023 của Chi cục Kiểm lâm

[Trở về]