THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2023 

Bước sang tháng 7/2023, phát huy những kết quả đạt được trong sáu tháng đầu năm, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội với quyết tâm tiếp tục thực hiện đạt các chỉ tiêu Kế hoạch đề ra. Kết quả đạt được trong tháng 7/2023 trên các lĩnh vực như sau:

I. KINH TẾ

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tháng 7 năm 2023, sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu vào chăm sóc lúa và thu hoạch cây hàng năm vụ Hè Thu. Tình hình sản xuất chăn nuôi có biến động; dịch tả lợn châu Phi có nguy cơ tiếp tục tái dịch và lây lan diện rộng, phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm tiếp tục được tăng cường. Sản xuất lâm nghiệp tập trung công tác quản lý, phòng cháy, chữa cháy rừng. Khai thác, nuôi trồng thuỷ sản phát triển về số lượng và chất lượng.

a) Nông nghiệp

- Trồng trọt

Công tác gieo cấy lúa vụ Hè Thu các địa phương đã kết thúc, đảm bảo đúng lịch thời vụ được khuyến cáo, tránh được những bất lợi về thời tiết vào giai đoạn cuối vụ. Hiện nay, các địa phương đang tập trung vào việc chăm sóc cây trồng vụ Hè Thu. Mặc dù điều kiện thời tiết đầu vụ nắng nóng kéo dài với nền nhiệt cao, phổ biến từ 38-40 độ C song các hồ chứa trên địa bàn vẫn đảm bảo cung cấp nước tưới cho toàn bộ diện tích xuống giống, vì vậy hiện nay cây lúa và cây trồng khác sinh trưởng bình thường. Kết quả thực hiện, diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Hè Thu thực hiện 34.906,9 ha, tăng 0,8% so với vụ Hè Thu năm trước.

Hình 1. Diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm vụ Hè Thu

Diện tích lúa thực hiện 23.398,0 ha, tăng 0,6% so với vụ Hè Thu năm trước. Trong đó: Lúa tái sinh 8.864,7 ha, tăng 0,5%; lúa gieo cấy 14.533,3 ha, tăng 0,7% so với vụ Hè Thu năm trước. Diện tích lúa Hè Thu gieo cấy tăng do hệ thống thủy lợi tưới, tiêu nước hiệu quả, đảm bảo đủ nguồn nước phục vụ cho nhu cầu gieo cấy.

Diện tích lúa Hè Thu của các địa phương: Thành phố Đồng Hới 748,9 ha, tăng 0,6%; thị xã Ba Đồn 2.204,7 ha, tăng 1,3%; huyện Minh Hóa 480,4 ha, tăng 7,0%; huyện Tuyên Hóa 1.150 ha, giảm 2,5%; huyện Quảng Trạch 3.362 ha, bằng năm trước; huyện Bố Trạch 2.112,3 ha, giảm 4,4%; huyện Quảng Ninh 3.857 ha, tăng 4,0%; huyện Lệ Thủy 9.482,7 ha, tăng 2,1% so với vụ Hè Thu năm trước.

Diện tích gieo trồng một số cây trồng chủ yếu: Ngô 535 ha, tăng 0,9%; khoai lang 380 ha, tăng 0,5%; cây sắn 6.550 ha, tăng 2,0%; cây lạc 492 ha, tăng 0,4%; rau, đậu các loại 2.305 ha, tăng 0,7% so với vụ Hè Thu năm trước.

Tình hình sâu bệnh hại trên cây trồng:

- Trên lúa: Chuột: Diện tích gây hại 190,5 ha, tỷ lệ gây hại phổ biến 1-2%, nơi cao 5-7%. Sâu cuốn lá nhỏ: Diện tích gây hại 159 ha, mật độ phổ biến 3-5con/m2, nơi cao 7-10 con/m2, TT, sâu tuổi 1,2. Rầy: Diện tích gây hại 97 ha, mật độ phổ biến 20-30 con/m2, nơi cao 100-200 con/m2, cục bộ 300-500 con/m2, rầy tuổi T5, TT. Sâu keo: Diện tích gây hại 37 ha, mật độ phổ biến 3-5 con/m2, nơi cao 7-10 con/m2, sâu tuổi 4-5. Sâu đục thân: Diện tích gây hại 11ha, tỷ lệ 0,5-1%. Bệnh khô vằn: Diện tích nhiễm 48 ha, tỷ lệ bệnh 5-7%, nơi cao 10-12%, cấp bệnh C1-3. Bệnh thối thân, thối bẹ: Diện tích nhiễm 20 ha, tỷ lệ bệnh 1-2%, nơi cao 5-7%.

- Trên sắn: Bệnh khảm lá: Diện tích nhiễm 1.980 ha, tỷ lệ bệnh phổ biến 5-10%, nơi cao 15-30%, cục bộ 70-100%. Bọ phấn trắng: Diện tích nhiễm 240 ha, mật độ 50- 100 con/m2, nơi cao 200-300 con/m2. Nhện đỏ: Diện tích gây hại 230 ha, Mật độ phổ biến 10-15%, nơi cao 30-50%.

- Trên rau: Sâu ăn lá với diện tích gây hại 14,6 ha, mật độ phổ biến 3-5 con/m2 [1].

- Chăn nuôi

Sản xuất chăn nuôi tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2023 có nhiều biến động so với cùng kỳ năm trước, cả về số lượng cũng như sản lượng các loại thịt hơi xuất chuồng của đàn vật nuôi.

Sản lượng sản phẩm xuất chuồng tháng 7 ước đạt 6.859 tấn, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 179 tấn, giảm 4,5%; thịt bò 880 tấn, giảm 7,9%; thịt lợn 3.700 tấn, tăng 12,6%; thịt gia cầm 2.100 tấn, tăng 18,6% (Trong đó: Thịt gà 1.680 tấn, tăng 12%) so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng sản phẩm xuất chuồng 7 tháng ước đạt 51.953 tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 1.129 tấn, giảm 0,1%; thịt bò 5.590 tấn, giảm 0,9%; thịt lợn 29.380 tấn, tăng 3,8%; thịt gia cầm 15.854 tấn, tăng 11,2% (Trong đó: Thịt gà 12.180 tấn, tăng 11,4%) so với cùng kỳ năm trước.

Hình 2. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng

Hiện tại, ngành Thú y đang kết hợp các ngành liên quan, các địa phương triển khai công tác tiêm phòng vắc-xin định kỳ, bơm hóa chất khử trùng, khử độc cho đàn gia súc, gia cầm.

Kết quả tiêm phòng vắc-xin gia súc, gia cầm đợt 1/2023: Toàn tỉnh đã tiêm được 2.987 liều vắc-xin viêm da nổi cục, đạt 2,8% kế hoạch (KH); 30.027 liều vắc-xin lở mồm long móng, đạt 28,6% KH; 30.065 liều vắc-xin tụ huyết trùng trâu, bò, đạt 34,3% KH; 37.464 liều vắc-xin dịch tả lợn, đạt 26,8% KH; 136.029 liều vắc-xin cúm gia cầm, đạt 5,4% KH; 14.322 liều vắc-xin dại, đạt 23,9% KH.

Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm:

- Bệnh Dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay, còn 3 xã/2 huyện có dịch chưa qua 21 ngày (xã Xuân Hóa, Tân Hóa - huyện Minh Hóa và xã Xuân Trạch - huyện Bố Trạch). Lũy kế đến ngày 18/7/2023, dịch bệnh dịch tả lợn châu Phi xảy ra tại 42 hộ/14 thôn/9 xã/4 huyện (Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Bố Trạch) làm 599 con lợn buộc tiêu hủy với trọng lượng là 36.051 kg.

- Dịch bệnh Viêm da nổi cục: Các ổ dịch cơ bản ổn định, đã qua 21 ngày.

- Bệnh Lở mồm long móng, Cúm gia cầm, Tai xanh lợn,... không xảy ra [2].

b) Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp tháng 7 năm 2023, chủ yếu tập trung thực hiện công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng. Thời tiết vào mùa nắng nóng nên diện tích trồng rừng tập trung có xu hướng giảm hơn so với các tháng trước. Các chủ rừng tiếp tục thực hiện công tác chăm sóc, trồng dặm, trồng bổ sung diện tích còn trống, nhằm đảm bảo tiến độ kế hoạch đề ra.

Tháng 7 năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 275,0 ha, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm trước; luỹ kế 7 tháng ước đạt 3.885,0 ha, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính, sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tháng 7 đạt 56.500,0 m3, tăng 1,8%; lũy kế 7 tháng đạt 278.610,0 m3, tăng 2,0% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác tăng chủ yếu từ rừng sản xuất, do chất lượng rừng trồng được nâng cao, diện tích rừng trồng của các hộ dân, doanh nghiệp đã đến kỳ khai thác phải thu hoạch.

Ước tính, sản lượng củi khai thác trong tháng 7 đạt 56.751,0 ste, tăng 1,3%; lũy kế 7 tháng đạt 195.940 ste, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước.

Từ đầu tháng 7 đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 2 vụ cháy rừng; trong đó: 1 vụ cháy rừng tại xã Thuận Đức, thành phố Đồng Hới với diện tích 3,7 ha (3,0 ha rừng trồng keo của hộ gia đình và 0,7 ha rừng thông của Chi nhánh Lâm trường Đồng Hới) [3] và 1 vụ cháy tại xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh với diện tích 1 ha (1 ha rừng trồng phi lao và keo của Ban quản lý rừng phòng hộ Đồng Hới và ven biển Quảng Bình) [4]. Luỹ kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 2 vụ cháy rừng, diện tích thiệt hại 4,7 ha.

Các cơ quan chuyên môn tiếp tục tập trung cao độ, đẩy mạnh công tác phòng cháy, chặt phá rừng, khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép, nhất là các khu rừng đặc dụng, khu vực biên giới. Sẵn sàng lực lượng, phương tiện khi có cháy xảy ra tại địa bàn quản lý.

c) Thủy sản

Tình hình sản xuất thủy sản tháng 7/2023 tiếp tục phát triển khá. Nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản trong tháng tăng so với cùng kỳ, nhờ ngành du lịch phục hồi tốt, giá cả các mặt hàng thuỷ sản ổn định, thị trường tiêu thụ tăng.

Sản xuất thủy sản trong tháng 7 vẫn duy trì mức tăng trưởng khá, ước tính sản lượng thủy sản tháng 7 đạt 10.906,0 tấn, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 8.632,0 tấn, tăng 4,6%; tôm đạt 1.219,4 tấn, tăng 1,1%; thuỷ sản khác đạt 1.054,6 tấn, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Sản lượng thủy sản

Ước tính sản lượng thủy sản 7 tháng đạt 56.684,1 tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 46.589,1 tấn, tăng 5,0%; tôm đạt 3.560,0 tấn, tăng 1,9%; thủy sản khác đạt 6.535,0 tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước.

- Khai thác

Thời tiết tháng 7 tương đối thuận lợi nên hoạt động khai thác thuỷ sản đạt kết quả khá. Giá các mặt hàng thuỷ sản duy trì ổn định, nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu tăng nên bà con ngư dân nỗ lực vươn khơi bám biển, duy trì sản xuất. Ước tính sản lượng khai thác thủy sản tháng 7 đạt 8.976,6 tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 7.722,0 tấn, tăng 4,9%; tôm đạt 215,1 tấn, tăng 1,9%; thủy sản khác đạt 1.039,5 tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 8.569,0 tấn tăng 5,1%; khai thác nội địa 407,6 tấn, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng khai thác 7 tháng đạt 50.362,0 tấn, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 42.924,7 tấn, tăng 5,2%; tôm đạt 1.036,6 tấn, tăng 3,1%; thuỷ sản khác 6.400,7 tấn, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình khai thác thủy sản phát triển khá, công tác kiểm tra đăng ký, đăng kiểm tàu cá và các điều kiện đảm bảo an toàn phương tiện được chú trọng; việc thực hiện các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản xa bờ được các ngành và các địa phương quan tâm.

- Nuôi trồng

Nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển, áp dụng công nghệ hiện đại, diện tích nuôi được mở rộng, đối tượng và hình thức nuôi ngày một đa dạng. Các hộ nuôi trồng tại các địa phương đã đầu tư tăng về mặt diện tích, tăng năng suất theo hướng thâm canh như nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi cá trong ruộng lúa, nuôi cá lồng, bè,… nên sản lượng nuôi trồng ngày càng tăng.

Ước tính sản lượng thủy sản nuôi thu hoạch tháng 7 đạt 1.929,4 tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 910,0 tấn, tăng 2,0%; tôm đạt 1.004,3 tấn, tăng 0,9%; thủy sản khác đạt 15,1 tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thủy sản nuôi thu hoạch 7 tháng đạt 6.322,1 tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 3.664,4 tấn, tăng 2,8%; tôm đạt 2.523,4 tấn, tăng 1,5%; thủy sản khác 134,3 tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước.

Công tác sản xuất giống được chú trọng hơn, các cơ sở ươm nuôi tôm giống được đầu tư mở rộng tăng quy mô nên đã cung cấp một phần giống cho người nuôi, đặc biệt giống tôm thẻ chân trắng. Ước tính 7 tháng số tôm thẻ chân trắng giống đạt 1.744,2 triệu con, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước.

2. Công nghiệp

Tháng Bảy, hoạt động sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt kết quả tích cực, một số ngành công nghiệp như: Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất; sản xuất đồ uống; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy; sản xuất và phân phối điện có mức tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất công nghiệp vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn do đơn hàng xuất khẩu giảm, đầu ra sản phẩm không thuận lợi ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 7 năm 2023 tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 3,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 37,3%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 7 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 4,1%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,7%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 21,3%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 4. Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2023

Chỉ số sản xuất 7 tháng năm 2023 của một số ngành cấp 2 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 76,5%; sản xuất đồ uống tăng 44,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 26,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 22,5%; sản xuất và phân phối điện tăng 21,3%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 21,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 24,9% (nguyên nhân một số ngành công nghiệp tăng cao so với cùng kỳ là do tại thời điểm tháng 7/2022 một số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động hoặc sản xuất với sản lượng thấp do không có đơn hàng, sản phẩm tiêu thụ khó khăn). Một số ngành cấp 2 tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3,4%; khai khoáng khác tăng 1,2%; sản xuất trang phục giảm 8,9%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn ghế) giảm 16,5%; khai thác quặng kim loại giảm 38,7%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất cộng dồn đến cuối tháng 7 năm 2023 so với cùng kỳ năm trước: Quặng titan đạt 27,4 nghìn tấn, giảm 38,7%; đá xây dựng đạt 1,8 triệu m3, giảm 7,8%; cao lanh đạt 50,8 nghìn tấn, tăng 30,5%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 13,7 nghìn tấn, tăng 1,0%; bia đóng chai đạt 2,4 triệu lít, tăng 72,1%; nước khoáng đạt 1,2 triệu lít, giảm 1,6%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 3,3 triệu cái, giảm 22,4%; áo sơ mi đạt 6,3 triệu cái, giảm 22,2%; dăm gỗ đạt 206,3 nghìn tấn, giảm 16,5%; ván ép từ gỗ đạt 18.153 m3, giảm 54,0%; cao su tổng hợp đạt 778 tấn, tăng 42,0%; kính cường lực đạt 1.665 tấn, tăng 9,0%; clinker thành phẩm đạt 1,5 triệu tấn, giảm 14,7%; xi măng đạt 931,1 nghìn tấn, tăng 1,5%; điện gió đạt 331,8 triệu kwh, tăng 23,2%; điện thương phẩm đạt 632 triệu kwh, tăng 1,9%; nước máy thương phẩm đạt 8.154 nghìn m3, tăng 6,8%.

3. Vốn đầu tư

Tình hình vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 7 năm 2023 có những chuyển biến tích cực. UBND tỉnh tiếp tục đôn đốc, chỉ đạo các Sở, ban, ngành cấp tỉnh; UBND các huyện, thị xã, thành phố; các chủ đầu tư về việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, xử lý vi phạm tiến độ thực hiện, giải quyết vướng mắc để dự án sớm triển khai thực hiện, tiếp tục chỉ đạo công tác quản lý đầu tư công, tập trung bố trí vốn để đẩy nhanh tiến độ các dự án thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án trọng điểm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trong tháng 7 năm 2023 ước tính đạt 411,8 tỷ đồng, tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 274,7 tỷ đồng, tăng 9,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 80,2 tỷ đồng, tăng 11,2%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 56,9 tỷ đồng, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 7 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý đạt 2.606,4 tỷ đồng, tăng 9,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 1.712,8 tỷ đồng, tăng 6,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 521,3 tỷ đồng, tăng 11,9%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 372,3 tỷ đồng, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước.

4. Thương mại, dịch vụ

a) Tổng mức bán lẻ hàng hoá

Tháng 7/2023, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tổ chức hội chợ xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy kích cầu tiêu dùng, cùng với nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng của người dân tăng do thời tiết nắng nóng kéo dài trong khi giá cả các mặt hàng lương thực thực phẩm, điện, nước tăng. Đây là những nguyên nhân góp phần làm cho tổng mức bán lẻ tiếp tục tăng so với tháng trước và so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 7/2023 ước tính đạt 3.935,5 tỷ đồng, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 11,8% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm hàng đều tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ, chỉ có nhóm ô tô các loại ước tính đạt 223,2 tỷ đồng, tăng 0,2% so với tháng trước và giảm 6,4% so với cùng kỳ.

Hình 5. Tổng mức bán lẻ hàng hóa 7 tháng năm 2023

Tính chung 7 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 27.167,5 tỷ đồng, tăng 13,0 % so với cùng kỳ, trong đó hầu hết nhóm ngành đều tăng cao trên 10%. Trong đó: nhóm lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng mức bán lẻ đạt 10.231,1 tỷ đồng và tăng 17,0% so với cùng kỳ, đóng góp tăng cao nhất (6,3 điểm phần trăm) trong tổng số tăng chung của tổng mức bán lẻ hàng hóa.

b) Dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành

Tỉnh Quảng Bình với lợi thế có Di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, có nhiều bãi biển đẹp, cùng với việc đẩy mạnh phát triển du lịch với nhiều mô hình khác nhau, nhiều homestay có kiến trúc độc đáo thu hút khách du lịch mọi miền. Tháng 7/2023 hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng, tắm biển của khách du lịch tại các địa điểm Phong Nha - Kẻ Bàng, biển Nhật Lệ, Bảo Ninh, Quang Phú,… rất nhộn nhịp, do đó doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành tăng so với tháng trước và so với cùng kỳ.

- Dịch vụ lưu trú:

Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 7/2023 ước tính đạt 75,3 tỷ đồng, tăng 4,4% so với tháng trước và tăng 20,6% so với cùng kỳ; tính chung 7 tháng đầu năm 2023 đạt 341,2 tỷ đồng, tăng 50,3% so với cùng kỳ.

Số lượt khách lưu trú tháng 7/2023 ước tính đạt 220.239 lượt khách, tăng 3,8% so với tháng trước và tăng 20,2% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 1.029.772 lượt khách, tăng 54,1% so với cùng kỳ.

Số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 7/2023 ước tính đạt 5.820 lượt khách, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 79,7% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 55.585 lượt khách, gấp 5,2 lần so với cùng kỳ.

Ngày khách tháng 7/2023 ước tính đạt 235.845 ngày khách, tăng 3,9% so với tháng trước và 21,3% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 1.090.852 ngày khách, tăng 56,8% so với cùng kỳ.

- Dịch vụ ăn uống:

Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 7/2023 ước tính đạt 492,3 tỷ đồng, tăng 4,9% so với tháng trước và tăng 11,8% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 2.445,6 tỷ đồng, tăng 21,8% so với cùng kỳ.

Hình 6. Dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng năm 2023

- Du lịch lữ hành:

Tháng 7 là tháng du lịch cao điểm, đặc biệt do thời tiết nắng nóng nên các các tour du lịch sinh thái khám phá tại Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng khai thác hết công suất tour.

Doanh thu hoạt động lữ hành tháng 7/2023 ước tính đạt 53,4 tỷ đồng, tăng 10,6% so với tháng trước và tăng 3,5% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 265,3 tỷ đồng, tăng 55,5% so với cùng kỳ.

Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 7/2023 ước tính đạt 87.394 lượt khách, tăng 11,6% so với tháng trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 431.307 lượt khách, tăng 76,6% so với cùng kỳ.

Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 7/2023 ước tính đạt 5.568 lượt khách, tăng 4,1% so với tháng trước và tăng 99,6% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 48.376 lượt khách, gấp 4,9 lần so với cùng kỳ.

Hình 7. Du lịch lữ hành 7 tháng năm 2023

c) Các ngành kinh doanh dịch vụ khác

Cùng với hoạt động du lịch tăng cao, hoạt động dịch vụ, vui chơi giải trí tháng 7 tăng đáng kể. Ước tính doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ tháng 7/2023 đạt 178,5 tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 5,6% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm ngành dịch vụ đều tăng so với tháng trước và tăng cao so với cùng kỳ, chỉ có nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm 0,4% so với tháng trước và giảm 15,2% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 0,2% so với tháng trước, tăng 1,0% so với cùng kỳ.

Bảy tháng đầu năm 2023, doanh thu hoạt động dịch vụ khác đạt 1.228,4 tỷ đồng, giảm 1,9% so với cùng kỳ do nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm mạnh 35,7%, đã làm giảm 3,2 điểm phần trăm trong tổng số giảm chung của nhóm các ngành kinh doanh dịch vụ.

d) Hoạt động vận tải

Hoạt động vận tải trong tháng 7/2023 tiếp tục tăng trưởng khá so với cùng kỳ, nhờ lượng khách du lịch đến thành phố Đồng Hới tăng cao, các loại hình vận tải vẫn duy trì và phát triển đảm bảo lưu thông hàng hóa cũng như đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh đang triển khai làm đường bộ cao tốc Bắc - Nam và đường ven biển, do đó khối lượng vận chuyển hàng hoá tăng lên đáng kể, nên doanh thu vận tải hành khách cũng như vận chuyển hàng hoá tăng khá so với cùng kỳ.

Ước tính doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 7/2023 đạt 476,8 tỷ đồng, tăng 4,2% so với tháng trước và tăng 15,0% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 7 tháng năm 2023 doanh thu vận tải, kho bãi đạt 3.122,7 tỷ đồng, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 513,2 tỷ đồng, tăng 15,2%; doanh thu vận tải hàng hoá đạt 2.355,5 tỷ đồng, tăng 19,2%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát đạt 254,0 tỷ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 8. Doanh thu hoạt động vận tải 7 tháng năm 2023

Tổng số hành khách vận chuyển ước tính tháng 7/2023 đạt 3,0 triệu hành khách, tăng 4,0% so với tháng trước và tăng 12,4% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 20,1 triệu hành khách, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 7/2023 ước tính đạt 139,2 triệu lượt hành khách.km, tăng 4,0% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 7 tháng năm 2023 đạt 898,3 triệu lượt hành khách.km, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển ước tính tháng 7/2023 đạt 3,0 triệu tấn, tăng 5,0% so với tháng trước và tăng 14,7% so với cùng kỳ; 7 tháng năm 2023 đạt 19,7 triệu tấn, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính tháng 7/2023 đạt 209,4 triệu tấn.km, tăng 7,1% so với tháng trước và tăng 16,6% so với cùng kỳ; tính chung 7 tháng năm 2023 đạt 1.382,1 triệu tấn.km, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước.

đ) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Theo Nghị quyết số 69/2022/QH15, từ ngày 01/7/2023 thực hiện tăng lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức là một trong những yếu tố đã tác động làm cho CPI của tỉnh Quảng Bình trong tháng 7 năm 2023 tăng 1,51% so với tháng trước; tăng 5,52% so với cùng kỳ năm trước và tăng 7,75% so với tháng 12 năm trước. CPI bình quân 7 tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng 1,22% (trong đó: Nhóm hàng hóa tăng 0,84%; nhóm dịch vụ tăng 1,97%).

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 6 nhóm hàng tăng giá, 1 nhóm giảm giá và 4 nhóm có chỉ số giá tiêu dùng không thay đổi. Cụ thể như sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,74%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,18%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,60%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,18%; nhóm giao thông tăng 0,31%; nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 2,80%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,01%; các nhóm: nhóm may mặc, mũ nón, giày dép; nhóm giáo dục; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số không đổi so với tháng trước.

Chỉ số giá vàng 99,99%

Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước, bình quân tháng 7/2023 giá vàng giảm 0,11% so với tháng trước, giá vàng dao động quanh mức 5,55 triệu đồng/chỉ, tăng 44,04% so với kỳ gốc 2019, tăng 4,98% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,91% so với tháng 12 năm trước; bình quân 7 tháng năm 2023 tăng 1,47% so với cùng kỳ.

Chỉ số giá đô la Mỹ (USD)

Giá đô la Mỹ tháng này có giá bình quân 23.473 đồng/USD, tăng 0,58% so với tháng trước, tăng 1,62% so với với kỳ gốc 2019, tăng 1,22% so với cùng kỳ năm trước và giảm 2,29% so với tháng 12 năm trước; bình quân 7 tháng năm 2023 tăng 2,68% so với cùng kỳ.

5. Thu ngân sách Nhà nước, tín dụng

a) Thu ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách trên địa bàn 7 tháng năm 2023 ước tính thực hiện 3.044,7 tỷ đồng, bằng 43,5% dự toán địa phương giao và bằng 53,7% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa thực hiện 2.764,7 tỷ đồng, bằng 42,5% dự toán địa phương giao và bằng 50,0% so với cùng kỳ (nếu trừ thu tiền sử dụng đất đạt 26,3% dự toán Trung ương và 23,8% dự toán tỉnh và bằng 89,1% so với cùng kỳ); thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 280 tỷ đồng, bằng 56,0% dự toán địa phương giao, vượt 5,7% so với dự toán Trung ương và tăng 94,2% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tổng số thu cân đối ngân sách 7 tháng năm 2023, có 8/16 khoản có tăng trưởng so với cùng kỳ, đó là thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước địa phương, thu ngoài quốc doanh, thu phí và lệ phí, thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thu khác trong cân đối ngân sách, thu hoa lợi công sản; thu xổ số kiến thiết và thu cổ tức, lợi nhuận được chia.

b) Tín dụng

Các tổ chức tín dụng tiếp tục triển khai thực hiện các chỉ đạo, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, trong đó tập trung triển khai chính sách tín dụng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ.

- Hoạt động huy động vốn:

Đến 30/6/2023, tổng nguồn vốn huy động đạt 60.571 tỷ đồng, tăng 8,45% so với đầu năm. Ước tính đến 31/7/2023, tổng nguồn vốn huy động đạt 61.050 tỷ đồng, tăng 9,3% so với đầu năm.

- Hoạt động tín dụng:

Đến 30/6/2023, tổng dư nợ đạt 88.810 tỷ đồng, tăng 2,55% so với đầu năm. Ước tính đến 31/7/2023, dư nợ đạt 81.170 tỷ đồng, tăng 3,0% so với đầu năm [5].

II. XÃ HỘI

1. Y tế

Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, trong tháng 6/2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 34 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 6 trường hợp Tay - chân - miệng; 1 trường hợp Dại; 1 trường hợp viêm gan vi rút B; 413 trường hợp cúm; 5 trường hợp lỵ trực tràng; 6 trường hợp quai bị; 29 trường hợp thủy đậu; 166 trường hợp tiêu chảy; 1 trương hợp viêm gan vi rút khác; 2 trường hợp thay đổi chuẩn đoán bệnh không thuộc danh mục. Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 30/6/2023 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 155 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 13 trường hợp Tay - chân - miệng; 1 trường hợp Dại; 1 trường hợp thương hàn; 2.970 trường hợp cúm; 1 trường hợp lỵ amít; 12 trường hợp lỵ trực tràng; 13 trường hợp quai bị; 367 trường hợp thủy đậu; 905 trường hợp tiêu chảy; 9 trường hợp viêm gan virut khác; 26 trường hợp bệnh không thuộc danh mục.

Dịch COVID-19 tiếp tục được theo dõi sát sao, ngành Y tế tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch đảm bảo không để dịch bùng phát trở lại. Theo báo cáo của Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, tính đến thời điểm 6h00 ngày 17/7/2023, toàn tỉnh có 2.049.292 liều vắc xin đã được tiêm, trong đó 675.491 người đã tiêm 2 mũi; 151.727 người đã tiêm mũi bổ sung; 408.207 người đã tiêm mũi nhắc lại 1 (mũi 3); 95.302 người đã tiêm mũi nhắc lại 2 (mũi 4). Số ca mắc COVID-19 cộng dồn từ đầu năm đến 06h00 ngày 17/7/2023 là 1031 ca. Số ca tử vong cộng dồn: 0.

Tình hình sốt rét toàn tỉnh trong tháng 6/2023, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 2 lượt người; trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 3.202 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,00%. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 6/2023, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 72 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 2 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 16.896 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,01%.

Tháng 6/2023, trên địa bàn tỉnh phát hiện 02 người nhiễm mới HIV, 01 người tử vong. Tính đến ngày 30/6/2023, lũy tích nội tỉnh số người nhiễm HIV là 479 người; số bệnh nhân AIDS là 409 người; số bệnh nhân tử vong là 143 người [6]. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, khám, điều trị bệnh nhân HIV/AIDS, hướng dẫn các hành vi an toàn dự phòng lây nhiễm HIV, nhằm hạn chế sự lây nhiễm HIV trong nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng.

Tính đến ngày 15/7/2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 2 vụ ngộ độc thực phẩm ở xã Ngân Thủy, huyện Lệ thủy và xã Xuân Trạch, huyện Bố Trạch với 10 ca mắc, các bệnh nhân đã được nhập viện điều trị kịp thời nên không có tử vong, ngoài ra còn có 96 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

2. Giáo dục và đào tạo

Trong tháng, ngành giáo dục hoàn thành công tác chuẩn bị và tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023 đảm bảo an toàn, đúng quy chế; chuẩn bị các điều kiện cho kỳ thi tuyển sinh đầu cấp năm học 2023-2024; Công bố kết quả thi, tổ chức duyệt tuyển sinh vào lớp 10 Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp, Trường Phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh và 24 trường THPT không chuyên Đợt 1, Đợt 2, Đợt 3.

Tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 từ ngày 27 đến 29/6/2023. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023, toàn tỉnh có 11.168 thí sinh đăng ký dự thi, trong đó: 10.812 thí sinh đang học lớp 12, chiếm tỉ lệ 96,81% và 356 thí sinh thí sinh tự do, chiếm tỉ lệ 3,19%; 8.957 thí sinh thi để xét tốt nghiệp và đăng ký xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng chiếm tỉ lệ 80,2%; 1.912 thí sinh thi chỉ để xét tốt nghiệp chiếm tỉ lệ 17,12%; 299 thí sinh thi chỉ để đăng ký xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng chiếm tỉ lệ 2,68%. Công tác tổ chức coi thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng Quy chế; 2 thí sinh bị đình chỉ thi.

Tổ chức chấm thi Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023, công bố kết quả Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 theo lịch của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kết quả tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 tăng lên đáng kể so với năm trước. Tỷ lệ tốt nghiệp năm 2023 là 98,06% (tăng 1,07 % so với năm 2022: 96,99%). Số lượng điểm 10 là 159 (tăng 85 so với năm 2022). Điểm trung bình tất cả các môn: 6,365 điểm, đứng thứ 35 của cả nước (năm 2022 đứng thứ 38).

Sở Giáo dục đã tiếp nhận, kiểm tra, tham mưu Giám đốc Sở ban hành Quyết định thành lập 4 đoàn đánh giá ngoài (1 trường mầm non, 2 trường THCS, 1 trường THPT); hoàn thiện hồ sơ đánh giá ngoài tham mưu Giám đốc Sở ban hành quyết định cấp Chứng nhận 8 trường đạt kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD), trình Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định công nhận 8 trường đạt chuẩn quốc gia (mầm non 4 trường; tiểu học 3 trường; trung học cơ sở 1 trường).

Tính đến ngày 30/6/2023, toàn tỉnh có 241/563 trường đạt KĐCLGD, tỷ lệ 42,8% (mầm non 80/183, đạt 43,7%; tiểu học 76/181, đạt 42%; trung học cơ sở 76/167, đạt 45,5%; trung học phổ thông 9/32, đạt 28,1%); có 271/563 trường đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ 48,1% (mầm non 87/183, đạt 47,5%; tiểu học 89/181, đạt 49,2%; trung học cơ sở 87/167, đạt 52,1%; trung học phổ thông 8/32, đạt 25%).

Có 91/563 trường quá hạn KĐCLGD, tỷ lệ 16,2%, có 152/563 trường quá hạn chuẩn quốc gia, tỷ lệ 26,9%. Có 231/563 trường chưa đạt KĐCLGD, tỷ lệ 41%, có 140/563 trường chưa đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ 24,9%).

3. Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao

Các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao trong tháng diễn ra sôi nổi và ý nghĩa, mang đến không khí vui tươi trong đời sống Nhân dân. Triển khai dự án 6 “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”, Sở Văn hóa và Thể thao đã tổ chức lớp tập huấn kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; tổ chức xây dựng câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian tại các thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa.

Bảo tàng tổng hợp tỉnh hoàn thiện các thủ tục về lập hồ sơ di tích Đình Xuân Lai, xã Xuân Thủy, huyện Lệ Thủy; thông qua di tích Mộ Nguyễn Phạm Tuân, xã Quảng Tùng, huyện Quảng Trạch và Nhà thờ họ Tạ làng La Hà, xã Quảng Văn, thị xã Ba Đồn. Triển khai tu bổ các di tích: Mộ và Nhà thờ Hoàng Kế Viêm; Vụ thảm sát Mỹ Trạch; đón tiếp, hướng dẫn, phục vụ hơn 2.660 lượt khách tham quan Bảo tàng.

Trung tâm Văn hóa và Điện ảnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền cổ động và thực hiện 70 buổi chiếu phim, 05 buổi biểu diễn văn nghệ tuyên truyền kết hợp chiếu phim lưu động, phát hành Bản tin Văn hóa số tháng 7 đảm bảo tôn chỉ mục đích tuyên truyền kỷ niệm 76 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ, phục vụ nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Thư viện tỉnh cấp, đổi 42 thẻ bạn đọc; tiếp nhận 290 bản sách bổ sung và biếu tặng; Xử lý kỹ thuật 650 bản sách; Nhập CSDL 215 biểu ghi; phối hợp với nhà Thiếu nhi Quảng Bình luân chuyển sách phục vụ học sinh tại Nhà thiếu nhi; xây dựng 03 tủ sách cơ sở để phục vụ nhu cầu đọc.

 Đoàn Nghệ thuật truyền thống xây dựng chương trình nghệ thuật biểu diễn chào mừng Đại hội công đoàn tỉnh; biểu diễn chào mừng gặp mặt, biểu dương gia đình tiêu biểu,...

Thể thao phong trào nổi bật như: Tổ chức thành công giải vô địch bóng đá tỉnh Quảng Bình năm 2023, tranh Cúp Huda; Phối hợp tổ chức giải Grand Marathon Đồng Hới năm 2023; Tổ chức làm việc với các sở, ban, ngành bàn về tổ chức sự kiện chào mừng Ngày Quốc tế Yoga tại tỉnh Quảng Bình; Phối hợp với Liên đoàn Karate Quảng Bình đã tổ chức giải vô địch Karate các câu lạc bộ Quảng Bình mở rộng lần thứ II năm 2023 tranh cup Tâm Việt miền Trung.

Thể thao thành tích cao trong tháng đã đạt được những thành tựu nổi bật như: Tham gia thi đấu 4 giải đạt 31 HC các loại, trong đó 10 HCV, 12 HCB, 09 HCĐ. Cụ thể giải Đua thuyền Truyền thống vô địch quốc gia năm 2023 đạt 1 HCV, 1 HCB, 5 HCĐ; giải Điền kinh vô địch các nhóm tuổi trẻ quốc gia đạt 4 HCV, 4 HCB, 2 HCĐ, phá 1 kỷ lục nhóm tuổi trẻ; giải Bơi vô địch trẻ quốc gia, đạt 4 HCB, 2 HCĐ; giải Lặn vô địch trẻ quốc gia đạt 5 HCV, 3 HCB. Tính đến ngày 18/7/20232, các đội tuyển của tỉnh tham gia thi đấu 14 giải đạt được 149 huy chương các loại (31 HCV, 45 HCB, 73 HCĐ). Trong đó có 8 huy chương quốc tế (5 HCV, 1 HCB, 2 HCĐ).

4. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng (từ 17/6/2023 - 17/7/2023), trên địa bàn tỉnh xảy ra 21 vụ tai nạn giao thông, tăng 8 vụ so với tháng trước, tăng 14 vụ so với cùng kỳ năm 2022; trong đó tai nạn giao thông đường bộ 20 vụ, tai nạn giao thông đường sắt 1 vụ; đường thủy không xảy ra. Số người chết do tai nạn giao thông 13 người, tăng 7 người so với tháng trước, tăng 6 người so với cùng kỳ năm 2022. Số người bị thương do tai nạn giao thông 9 người, bằng tháng trước, giảm 3 người so với cùng kỳ năm 2022.

Lũy kế 7 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 70 vụ tai nạn giao thông, tăng 11 vụ so với cùng kỳ năm 2022, trong đó đường bộ 68 vụ, tăng 9 vụ so với cùng kỳ; đường sắt 2 vụ tăng 2 vụ so với cùng kỳ, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 37 người, giảm 3 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 35 người, giảm 5 người so với cùng kỳ; đường sắt 2 người tăng 2 người so với cùng kỳ, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 52 người, tăng 3 người, trong đó đường bộ bị thương 52 người, tăng 3 người cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2022.

Hình 9. Tình hình trật tự an toàn xã hội 7 tháng năm 2023

Theo báo cáo của Công an tỉnh, lũy kế 7 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 7 vụ cháy với giá trị thiệt hại tạm ước tính 2.101,5 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2022, số vụ cháy tăng 1 vụ, giá trị thiệt hại tạm ước giảm 831,5 triệu đồng.

Tình hình thiên tai: Từ đầu tháng 7 đến nay trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chưa xảy ra thiên tai, nên không có thiệt hại do thiên tai gây ra. Luỹ kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra đã xảy ra 1 vụ thiên tai, ước tính tổng giá trị thiệt hại 50.150 triệu đồng.

5. Tình hình nổi bật khác về xã hội

5.1. Lao động việc làm

Ước tính đến tháng 7/2023 có khoảng 12.395 lao động được giải quyết việc làm, đạt 67% kế hoạch năm, trong đó có khoảng 2.779 lao động được tuyển chọn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, đạt 75% kế hoạch năm. Trong tháng 7/2023, Trung tâm Dịch vụ việc làm đã tổ chức 14 phiên giao dịch việc làm; tư vấn 3.104 lượt về các vấn đề liên quan đến chế độ, chính sách việc làm, học nghề, bảo hiểm thất nghiệp, du học,…; giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng cho 431 người; 10 người được hỗ trợ học nghề; tổ chức đào tạo với 200 học viên tham gia [7].

5.2. Công tác an sinh xã hội

Ước tính đến tháng 7/2023, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Quyết định điều dưỡng người có công năm 2023 cho 8.520 người có công đến niên hạn với số tiền hơn 14,823 tỷ đồng (trong đó có 1.622 người điều dưỡng tập trung và 6.898 người điều dưỡng tại nhà); hướng dẫn, trả lời, chuyển đơn cho 87 trường hợp; giới thiệu 14 trường hợp đi giám định y khoa; đề nghị cấp lại Bằng Tổ quốc ghi công cho 54 trường hợp; lựa chọn 3 Người có công dự Hội nghị biểu dương Người có công tiêu biểu toàn quốc năm 2023; giới thiệu 10 người có công tiêu biểu có hoàn cảnh khó khăn đề nghị Thành phố Hà Nội tặng quà nhân Ngày Thương binh - Liệt sĩ; giải quyết trợ cấp hàng tháng: 35 trường hợp; giải quyết trợ cấp 1 lần: 377 trường hợp; giải quyết công tác mộ, nghĩ trang liệt sĩ: 12 trường hợp; giải quyết liên quan đến công tác quản lý hồ sơ: 116 trường hợp [8]./.

[1] Nguồn: Báo cáo số 273/BC-CNTY ngày 19/7/2023 của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật

[2] Nguồn: Báo cáo số 339/BC-CNTY ngày 20/7/2023 của Chi cục Chăn nuôi và Thú y

[3] Nguồn: Báo cáo số 683/BC-CCKL ngày 06/7/2023 của Chi cục Kiểm lâm

[4] Nguồn: Báo cáo số 702/BC-CCKL ngày 13/7/2023 của Chi cục Kiểm lâm

[5] Nguồn: Báo cáo số 553/BC-QUB ngày 21/7/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh Quảng Bình

[6] Nguồn: Báo cáo số 970/BC-KSBT ngày 15/7/2023 của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật, Sở Y tế

[7] Nguồn: Báo cáo số 416/BC-SLĐTBXH ngày 17/7/2023 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

[8] Nguồn: Báo cáo số 416/BC-SLĐTBXH ngày 17/7/2023 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

[Trở về]