THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2023 

Mặc dù vẫn còn không ít khó khăn nhưng với việc tiếp tục triển khai đồng bộ và tập trung chỉ đạo quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, tình hình kinh tế - xã hội (KT-XH) trên địa bàn tỉnh trong tháng 5/2023 đạt được những kết quả đáng ghi nhận: Kinh tế tiếp tục phát triển ổn định; an sinh xã hội, đời sống của Nhân dân được quan tâm và tiếp tục được cải thiện; tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Cụ thể tình hình trên các lĩnh vực KT-XH như sau:

I. KINH TẾ

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tháng 5/2023, vụ Đông Xuân tập trung vào việc thu hoạch lúa và chăm sóc cây hằng năm khác. Lúa trà đầu, trà chính vụ giai đoạn chín sáp - thu hoạch; trà muộn chín sữa, chín sáp. Ước tính năng suất, sản lượng lúa vụ Đông Xuân năm nay tăng so với vụ Đông Xuân năm trước. Sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định, các địa phương đang tập trung chăm sóc rừng trồng, khai thác gỗ và củi từ rừng trồng,... Sản xuất thủy sản phát triển khá, thời tiết thuận lợi, bà con ngư dân tiếp tục vươn khơi bám biển, duy trì sản xuất nên sản lượng thủy sản khai thác tăng khá; các hộ nuôi tiếp tục thả giống cho vụ chính trong năm.

 a) Nông nghiệp

- Trồng trọt

Thời tiết đầu vụ Đông Xuân thuận lợi nên công tác gieo trồng các loại cây hàng năm thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo lịch thời vụ đề ra và cơ bản gieo trồng hết diện tích. Tuy nhiên, ngày 08/5/2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra mưa lớn kèm dông lốc làm đổ ngã 5.378 ha lúa, gây ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng lúa vụ Đông Xuân.

Ước tính diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm nay thực hiện 54.432,7 ha, tăng 0,2% so với vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó, diện tích gieo trồng cây lúa thực hiện 29.385,7 ha, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích gieo trồng lúa ở các địa phương: Đồng Hới 851,7 ha, giảm 2,1%; Ba Đồn 2.625,2 ha, giảm 0,3%; Minh Hóa 511,2 ha, tăng 1,0%; Tuyên Hóa 1.440,5 ha, giảm 0,2%; Quảng Trạch 3.467 ha, tăng 1,9%; Bố Trạch 5.150,4 ha, giảm 0,5%; Quảng Ninh 5.182 ha, giảm 0,6%; Lệ Thủy 10.157,7 ha, giảm 0,3% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Diện tích gieo trồng một số cây trồng chủ yếu: Ngô 4.006 ha, tăng 2,2%; khoai lang 2.490 ha, giảm 2,4%; sắn 6.790 ha, tăng 1%; mía 155 ha, giảm 5,8%; lạc 3.420 ha, giảm 1,3%; rau các loại 4.320,9 ha, tăng 1,7%; đậu các loại 510,8 ha, tăng 2,3% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Hình 1. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân 2023

Ước tính năng suất một số cây trồng chủ yếu vụ Đông Xuân 2023 như sau: Năng suất lúa bình quân chung toàn tỉnh đạt 60,21 tạ/ha, tăng 1,4%; ngô đạt 60,9 tạ/ha, giảm 0,2%; khoai lang đạt 80,52 tạ/ha, giảm 0,04%; lạc đạt 25,0 tạ/ha, tăng 2%; rau các loại đạt 105,49 tạ/ha, tăng 11,1%; đậu các loại 10,33 tạ/ha, tăng 16,6% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Ước tính sản lượng lương thực vụ Đông Xuân năm 2023 đạt 201.534,8 tấn, tăng 1,1% so vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó: Sản lượng lúa đạt 176.930,8 tấn, tăng 1,2%; sản lượng lương thực khác 24.604 tấn, tăng 0,1% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân năm nay tăng nhẹ, năng suất và sản lượng nhiều loại cây trồng tăng so vụ Đông Xuân năm trước. Được sự chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp đã chuyển dịch cây trồng theo hướng tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Công tác chuyển giao và áp dụng tiến bộ khoa học được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ vào sản xuất đạt kết quả tốt, nhờ đó đã tạo được sự ổn định về tăng năng suất, sản lượng cây trồng. Vấn đề đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng được quan tâm đẩy mạnh.

- Chăn nuôi

Nhìn chung, tình hình chăn nuôi 5 tháng đầu năm phát triển ổn định. Đàn trâu, bò có giảm nhẹ do một số địa phương không đẩy mạnh tăng đàn. Đàn lợn đã và đang phục hồi lại rất nhanh. Đàn gia cầm quy mô nuôi tương đối ổn định và sản lượng xuất chuồng tăng cao.

Sản lượng sản phẩm xuất chuồng tháng 5 ước đạt 7.006,5 tấn, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 112,2 tấn, tăng 2%; thịt bò 640 tấn, tăng 2,4%; thịt lợn 4.098,3 tấn, tăng 3,8%; thịt gia cầm 2.156 tấn, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng sản phẩm xuất chuồng 5 tháng ước đạt 38.042,5 tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 837,7 tấn, tăng 1,8%; thịt bò 4.025 tấn, tăng 0,7%; thịt lợn 21.581,8 tấn, tăng 3,2%; thịt gia cầm 11.598 tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 2. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng


Hiện tại, ngành Thú y đang kết hợp các ngành liên quan, các địa phương triển khai công tác tiêm phòng vắc-xin định kỳ, bơm hóa chất khử trùng, khử độc cho đàn gia súc, gia cầm.

Kết quả tiêm phòng vắc-xin gia súc, gia cầm đợt 1/2023: Toàn tỉnh đã tiêm được 2.987 liều vắc-xin viêm da nổi cục, đạt 2,8% kế hoạch (KH); 30.027 liều vắc-xin lở mồm long móng, đạt 28,6% KH; 30.065 liều vắc-xin tụ huyết trùng trâu, bò, đạt 34,3% KH; 37.464 liều vắc-xin dịch tả lợn, đạt 26,8% KH; 136.029 liều vắc-xin cúm gia cầm, đạt 5,4% KH; 14.322 liều vắc-xin dại, đạt 23,9% KH.

Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm:

- Bệnh dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay, 4/4 xã có dịch đã qua 21 ngày. Lũy kế từ ngày 01/01/2023 đến ngày 16/5/2023, dịch tả lợn châu Phi xảy ra tại 5 hộ/4 thôn/4 xã/2 huyện (Quảng Trạch, Tuyên Hóa) làm 316 con lợn buộc tiêu hủy với trọng lượng là 15.125 kg.

- Dịch bệnh viêm da nổi cục: Từ ngày 14/4/2023 đến ngày 16/5/2023, dịch bệnh đã xảy ra ở 48 hộ/9 thôn/5 xã/2 huyện (Quảng Trạch, Tuyên Hóa) làm 50 con bò mắc bệnh, trong đó có 8 con bò chết do bệnh với trọng lượng 955 kg.

- Bệnh lở mồm long móng, cúm gia cầm, tai xanh lợn không xảy ra [1].

b) Lâm nghiệp

Tháng 5 năm 2023, thời tiết bắt đầu nắng nóng, các địa phương tập trung tăng cường công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng; các chủ rừng, hộ dân đang tiếp tục khai thác gỗ, củi từ rừng trồng.

Ước tính, sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tháng 5 đạt 47.108 m3, tăng 2,9%; 5 tháng đầu năm đạt 169.764 m3, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác trong tháng 5 ước đạt 23.419 ste, tăng 2,0%; 5 tháng đầu năm ước đạt 115.128 ste, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước.

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh chưa xảy ra cháy rừng. Hiện nay, thời tiết đã bắt đầu vào mùa nắng nóng, ngành Nông nghiệp đã xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra công tác phòng cháy, chữa cháy rừng, chỉ đạo các hạt Kiểm lâm đôn đốc chủ rừng đẩy nhanh công tác vệ sinh rừng, xử lý thực bì đảm bảo việc phòng chống cháy rừng năm 2023.     

c) Thủy sản

Trong tháng 5 thời tiết khá thuận lợi, các chủ tàu tăng cường vươn khơi đánh bắt. Hoạt động khai thác hải sản xa bờ được tăng cường về thời gian và mở rộng ngư trường nên sản lượng khai thác tăng khá. Bên cạnh đó, nuôi trồng thủy sản vẫn giữ quy mô diện tích nuôi, các ao hồ được nạo vét, vệ sinh và thả nuôi thuỷ sản các loại. Do đó, kết quả hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản trong tháng đạt khá so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thủy sản tháng 5 đạt 10.064,9 tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 8.359 tấn, tăng 6,4%; tôm đạt 634,7 tấn, tăng 2,5%; thủy sản khác đạt 1.071,2 tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thủy sản 5 tháng đạt 35.331,9 tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 29.508,5 tấn, tăng 5,5%; tôm đạt 1.755 tấn, tăng 2,8%; thủy sản khác đạt 4.068,4 tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Sản lượng thủy sản


- Khai thác

Từ đầu năm đến nay, thời tiết tương đối thuận lợi, giá xăng dầu ổn định trong nhiều tháng nên khai thác thủy sản biển phát triển khá. Hơn nữa, hiện nay đang mùa du lịch nên nhu cầu tiêu thụ hải sản tăng mạnh, ngư dân có động lực hơn để ra khơi bám biển.

Ước tính sản lượng khai thác thủy sản tháng 5 đạt 9.076,9 tấn, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 7.887 tấn, tăng 6,6%; tôm đạt 150,3 tấn, tăng 3,7%; thủy sản khác đạt 1.039,6 tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng khai thác 5 tháng đạt 31.843,5 tấn, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 27.202,7 tấn, tăng 5,7%; tôm đạt 670,2 tấn, tăng 3,9%; thuỷ sản khác 3.970,6 tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình khai thác thủy sản phát triển khá, công tác kiểm tra đăng ký, đăng kiểm tàu cá và các điều kiện đảm bảo an toàn phương tiện được chú trọng; việc thực hiện các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản xa bờ được các ngành và các địa phương quan tâm.

- Nuôi trồng

Hoạt động nuôi trồng thủy sản trong tháng 5 phát triển ổn định; thời tiết thuận lợi, các hộ nuôi tiếp tục thu hoạch sản phẩm, thả giống cho vụ chính trong năm.

Sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch tháng 5 ước đạt 988,0 tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 472,0 tấn, tăng 3,1%; tôm đạt 484,4 tấn, tăng 2,2%; thuỷ sản khác đạt 31,6 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch 5 tháng ước đạt 3.488,4 tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 2.305,8 tấn, tăng 3,0%; tôm đạt 1.084,8 tấn, tăng 2,1%; thủy sản khác đạt 97,8 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước.

Hiện nay, sản xuất giống nước ngọt, mặn, lợ đang bước vào vụ sản xuất mới; các trang trại, cơ sở và doanh nghiệp đã tiến hành ươm giống sản xuất theo kế hoạch đề ra để đảm bảo đủ số lượng, chất lượng đạt yêu cầu. Ước tính 5 tháng, sản lượng con giống tôm thẻ ước đạt 1.192,4 triệu con, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra còn một số con giống như: Cá trắm, cá chép, ba ba,... đang nuôi với quy mô nhỏ.

4. Công nghiệp

Sản xuất ngành công nghiệp trong tháng 5 có xu hướng phục hồi và tăng trưởng khá. Các ngành sản xuất giấy, bao bì từ giấy và bìa; cao su tổng hợp; sản xuất các cấu kiện kim loại; sản xuất và phân phối điện; sản xuất phân bón đạt kết quả khá nhờ có các đơn hàng mới được ký kết góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp tăng trưởng khá. Bên cạnh đó, một số ngành liên quan đến xuất khẩu vẫn còn khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như sản xuất trang phục và ngành chế biến gỗ do phải đối phó với nhiều khó khăn, thách thức do tác động bất ổn của an ninh kinh tế thế giới.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 5/2023 tăng 8,3% so với tháng trước và tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 1,7%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 23,8%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 5 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 2,5%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,7%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 17,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 4. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp


Chỉ số sản xuất 5 tháng năm 2023 của một số ngành cấp 2 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 39,0%; sản xuất đồ uống tăng 36,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 29,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 26,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 25,1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 24,8%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 20,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 17,4%. Một số ngành cấp 2 tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 2,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 2,2%; sản xuất trang phục giảm 6,1%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn ghế) giảm 11,8%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 14,7%; khai thác quặng kim loại giảm 38,4%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất cộng dồn đến cuối tháng 5/2023 so với cùng kỳ năm trước: Quặng titan đạt 17,5 nghìn tấn, giảm 38,4%; đá xây dựng đạt 1,3 triệu m3, giảm 5,0%; cao lanh đạt 31,8 nghìn tấn, tăng 38,0%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 9,1 nghìn tấn, tăng 8,0%; bia đóng chai đạt 839 nghìn lít, giảm 6,8%; nước khoáng đạt 578 nghìn lít, tăng 2,0%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 2,2 triệu cái, giảm 25,1%; áo sơ mi đạt 4.512 nghìn cái, giảm 16,5%; dăm gỗ đạt 147.370 tấn, giảm 13,2%; ván ép từ gỗ đạt 13,7 nghìn m3, giảm 59,5%; cao su tổng hợp đạt 346 tấn, tăng 47,9%; kính cường lực đạt 1,2 nghìn tấn, tăng 11,9%clinker thành phẩm đạt 1,1 triệu tấn, giảm 16,8%; xi măng đạt 624,0 nghìn tấn, tăng 5,2%; điện gió đạt 234 triệu kwh, tăng 22,9%; điện thương phẩm đạt 410 triệu kwh, tăng 1,3%; nước máy thương phẩm đạt 5,4 triệu m3, tăng 6,6%.

5. Vốn đầu tư

Tình hình vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trong tháng 5/2023 tiếp tục được UBND tỉnh đôn đốc, chỉ đạo các Sở, ban, ngành; UBND các huyện, thị xã, thành phố; các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với sự chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành, các đơn vị liên quan đã và đang tập trung nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án, đặc biệt là các công trình, dự án trọng điểm. Bên cạnh đó, tình hình thời tiết thuận lợi giúp cho các đơn vị đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trong tháng 5 năm 2023 ước tính đạt 379,0 tỷ đồng, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 9,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 248,9 tỷ đồng, tăng 9,0%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 75,3 tỷ đồng, tăng 5,5%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 54,8 tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 5 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý đạt 1.794,0 tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 1.173,9 tỷ đồng, tăng 5,8%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 361,1 tỷ đồng, tăng 12,8%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 259,0 tỷ đồng, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước.

6. Thương mại, dịch vụ

a) Tổng mức bán lẻ hàng hoá

Tháng 5/2023, hoạt động xúc tiến thương mại trên địa bàn tỉnh được đẩy mạnh như triển khai kế hoạch tuyên truyền Tuần lễ Thương hiệu quốc gia, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa. Ngoài ra, nhu cầu mua sắm, du lịch của người dân tăng cao vào dịp nghỉ lễ dài ngày đã tác động đến tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 5/2023 tăng so với tháng trước và so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 5/2023 ước tính đạt 3.893,5 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 12,4% so với cùng kỳ. Trong đó, hầu hết các nhóm hàng đều tăng so với tháng trước (chỉ có nhóm vật phẩm, văn hóa, giáo dục giảm 11,3% so với tháng trước) và tăng so với cùng kỳ năm trước (chỉ có nhóm ô tô các loại giảm 6,1% so với cùng kỳ năm trước).

Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 19.307,9 tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ, trong đó nhóm lương thực, thực phẩm tăng 17,5%, đóng góp tăng cao nhất (6,5 điểm phần trăm) trong tổng số tăng chung của tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Hình 5. Tổng mức bán lẻ hàng hóa


b) Lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành

Tháng 5, bắt đầu bước vào mùa du lịch hè năm 2023, cũng là tháng trùng vào dịp nghỉ lễ dài ngày 30/4 - 1/5, Giỗ Tổ Hùng Vương, Hội Rằm tháng 3 huyện Minh Hóa,… học sinh, sinh viên bước vào kỳ nghỉ hè nên các hoạt động tham quan du lịch diễn ra sôi động, nhu cầu tham quan du lịch của các trường học, gia đình tăng cao. Vì vậy doanh thu lưu trú, du lịch và ăn uống tháng 5/2023 tăng cao so với tháng trước và so với cùng kỳ.

- Dịch vụ lưu trú:

Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 5/2023 ước tính đạt 49,6 tỷ đồng, tăng 24,9% so với tháng trước và tăng 30,4% so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 183,3 tỷ đồng, tăng 62,1% so với cùng kỳ.

Số lượt khách lưu trú tháng 5/2023 ước tính đạt 148.913 lượt khách, tăng 19,6% so với tháng trước và tăng 36,6% so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 567.278 lượt khách, tăng 69,6% so với cùng kỳ.

Số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 5/2023 ước tính đạt 8.897 lượt khách, giảm 22,8% so với tháng trước và gấp 3,8 lần so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 44.047 lượt khách, gấp 8,9 lần so với cùng kỳ.

Ngày khách tháng 5/2023 ước tính đạt 152.097 ngày khách, tăng 16,3% so với tháng trước và tăng 40,2% so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 589.982 ngày khách, tăng 71,7% so với cùng kỳ.

- Dịch vụ ăn uống:

Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 5/2023 ước tính đạt 379,9 tỷ đồng, tăng 25,8% so với tháng trước và tăng 20,8% so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 1.479,1 tỷ đồng, tăng 27,8% so với cùng kỳ.

Hình 6. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống


- Du lịch lữ hành:

Doanh thu hoạt động lữ hành tháng 5/2023 ước tính đạt 38,5 tỷ đồng, tăng 16,0% so với tháng trước và tăng 23,9% so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 163,9 tỷ đồng, gấp 2,1 lần so với cùng kỳ.

Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 5/2023 ước tính đạt 62.167 lượt khách, tăng 14,7% so với tháng trước và tăng 31,7% so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 265.692 lượt khách, gấp 2,6 lần so với cùng kỳ.

Hình 7. Doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành


Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 5/2023 ước tính đạt 7.589 lượt khách, giảm 24,4% so với tháng trước và gấp 3,6 lần so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 ước đạt 37.458 lượt khách, gấp 8,3 lần so với cùng kỳ.

c) Các ngành kinh doanh dịch vụ khác

Hoạt động du lịch, lưu trú, ăn uống tăng cao trong tháng 5/2023 làm cho các dịch vụ như vui chơi, giải trí, làm đẹp,… tăng theo. Bên cạnh đó, đây là tháng cao điểm của mùa du lịch nên nhu cầu thuê xe du lịch, sử dụng lao động phục vụ tăng, tuy nhiên doanh thu ngành kinh doanh bất động sản tiếp tục giảm mạnh kéo theo doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ giảm so với cùng kỳ.

Ước tính doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ tháng 5/2023 đạt 176,1 tỷ đồng, tăng 0,02% so với tháng trước và giảm 4,9% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm dịch vụ đều tăng so với tháng trước và so với cùng kỳ. Riêng có nhóm dịch vụ khác (ngành 96) giảm 1,5% so với tháng trước và nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm 39,8% so với cùng kỳ.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ đạt 872,8 tỷ đồng, giảm 3,8% so với cùng kỳ. Trong đó hầu hết các nhóm ngành dịch vụ đều tăng cao từ 13,1% - 25,1%, tuy nhiên ngành kinh doanh bất động sản giảm mạnh 40,0% đã làm giảm 7,2 điểm phần trăm trong tổng số giảm chung của nhóm các ngành kinh doanh dịch vụ.

d) Hoạt động vận tải

Bước sang tháng 5/2023 có kỳ nghỉ Lễ 30/4 và 01/5 kéo dài 05 ngày nên nhu cầu đi lại, tham quan du lịch của người dân tăng khá so với tháng trước. Bên cạnh đó, trong tháng có nhiều công trình xây dựng và nhà dân bắt đầu thi công, do đó khối lượng vận chuyển hàng hoá cũng tăng so với tháng trước. Ước tính doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 5/2023 đạt 416,1 tỷ đồng, tăng 4,7% so với tháng trước và tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 5 tháng đầu năm 2023 doanh thu vận tải, kho bãi đạt 2.122,0 tỷ đồng, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hành khách đạt 354,1 tỷ đồng, tăng 15,4%; vận tải hàng hóa đạt 1.587,9 tỷ đồng, tăng 15,8%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 180,0 tỷ đồng, tăng 9,0% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 8. Doanh thu hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải


Tổng số hành khách vận chuyển ước tính tháng 5/2023 đạt 2,5 triệu hành khách, tăng 6,7% so với tháng trước và tăng 0,5% so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 13,2 triệu hành khách, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 5/2023 ước tính đạt 113,3 triệu lượt hành khách.km, tăng 6,4% so với tháng trước và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 5 tháng năm 2023 đạt 600,3 triệu lượt hành khách.km, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển ước tính tháng 5/2023 đạt 2,5 triệu tấn, tăng 6,5% so với tháng trước và tăng 1,5% so với cùng kỳ; 5 tháng năm 2023 đạt 12,6 triệu tấn, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính tháng 5/2023 đạt 179,7 triệu tấn.km, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng 7,5% so với cùng kỳ; tính chung 5 tháng năm 2023 đạt 884,0 triệu tấn.km, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước.

đ) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tỉnh Quảng Bình tháng 5 giảm 0,03% so với tháng trước, tăng 6,27% so với kỳ gốc 2019, giảm 0,85% so cùng kỳ năm trước và tăng 0,55% so tháng 12 năm trước; CPI bình quân 5 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước giảm 0,19% (trong đó: nhóm hàng hóa giảm 0,08%; nhóm dịch vụ giảm 0,38%).

So với tháng trước, CPI tháng 5 năm 2023 giảm 0,03%, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 01 nhóm giảm, 04 nhóm tăng và 06 nhóm không đổi so với tháng trước, cụ thể như sau: Nhóm giao thông giảm 2,49%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,34%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,65%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,43%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,01%; các nhóm: Nhóm hàng hoá và dịch vụ khác; nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép; nhóm giáo dục; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số không đổi so tháng trước.

Nguyên nhân làm giảm CPI so với tháng trước: Giá xăng, dầu trong nước ảnh hưởng bởi giá xăng dầu thế giới, liên Bộ Công Thương - Tài Chính ra quyết định điều chỉnh giá xăng dầu 3 đợt vào 04/5/2023, 11/5/2023 và ngày 22/5/2023. Giá xăng so với tháng trước giảm 7,84%, giá dầu Diezel giảm 7,86% đã tác động đến chỉ số giá nhóm giao thông giảm 2,49%, làm chỉ số giá CPI chung giảm; Giá nhóm vật liệu xây dựng nhà ở chính giảm 0,52% so với tháng trước (cụ thể là nhóm thép giảm do giá phôi thép tiếp tục giảm); Các loại trái cây nhiệt đới do vào mùa, nguồn cung tăng nên giá giảm so với tháng trước.

Chỉ số giá vàng 99,99%

Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước, bình quân tháng 5/2023 giá vàng tăng 1,62% so với tháng trước, giá vàng dao động quanh mức 5,60 triệu đồng/chỉ, tăng 45,17% so với kỳ gốc 2019, tăng 2,02% so cùng kỳ năm trước và tăng 5,73% so tháng 12 năm trước; bình quân 5 tháng đầu năm tăng 0,54% so cùng kỳ.

Chỉ số giá đô la Mỹ (USD)

Giá đô la Mỹ (USD) tháng này có giá bình quân 23.308 đồng/USD, giảm 0,13% so với tháng trước, tăng 0,91% so với kỳ gốc 2019, tăng 1,98% so với cùng kỳ năm trước và giảm 2,98% so với tháng 12 năm trước; bình quân 5 tháng đầu năm tăng 3,26% so cùng kỳ.

7. Thu ngân sách Nhà nước, ngân hàng

a) Thu ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách trên địa bàn 5 tháng năm 2023 ước tính thực hiện 1.946,2 tỷ đồng, đạt 31,6% dự toán Trung ương giao, đạt 27,8% dự toán địa phương và bằng 53,9% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa thực hiện 1.841,2 tỷ đồng, đạt 31,3% % dự toán Trung ương giao, đạt 28,3% dự toán địa phương và bằng 52,6% so với cùng kỳ; thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 105 tỷ đồng, đạt 39,6% dự toán Trung ương giao, đạt 21,0% dự toán địa phương bằng 96,3% so với cùng kỳ năm trước. Thu nội địa nếu trừ thu tiền sử dụng đất đạt 33,1% dự toán Trung ương và bằng 32% dự toán tỉnh, bằng 94,2% so với cùng kỳ.

Trong tổng số thu cân đối ngân sách 5 tháng năm 2023, có 7/17 khoản thu đạt tiến độ (41,7%) so với dự toán năm của Trung ương là thu từ doanh nghiệp Nhà nước địa phương, thu ngoài quốc doanh, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thu xổ số kiến thiết, thu tiền cấp quyền sử dụng khu vực biển, thu khác ngân sách, thu hoa lợi công sản; còn lại 10 khoản chưa đạt tiến độ của dự toán năm. So với cùng kỳ năm 2022, có 7/17 khoản thu tăng, đó là thu từ doanh nghiệp Nhà nước địa phương, thu ngoài quốc doanh, thu phí và lệ phí, thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thu xổ số kiến thiết, thu khác Ngân sách và thu hoa lợi công sản. Còn lại 10 khoản đều giảm.

b) Ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Quảng Bình đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn tiếp tục triển khai quyết liệt, có hiệu quả các biện pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, cấp tín dụng hướng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng bám sát Chương trình phục hồi và phát triển KTXH theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ như Nghị quyết 11 đã đề ra; đồng thời triển khai thực hiện các chỉ đạo, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước về công tác huy động vốn, cho vay phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

- Hoạt động huy động vốn: Đến ngày 30/4/2023, tổng nguồn vốn huy động đạt 58.230 tỷ đồng, tăng 4,3% so với đầu năm. Ước tính đến ngày 31/5/2023, tổng nguồn vốn huy động đạt 58.300 tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 4,4% so với đầu năm.

- Hoạt động tín dụng: Đến ngày 30/4/2023, tổng dư nợ cho vay đạt 80.625 tỷ đồng, tăng 2,3% so với đầu năm. Ước tính đến ngày 31/5/2023, tổng dư nợ đạt 81.400 tỷ đồng, tăng 1,0% so với tháng trước tăng 3,3% so với đầu năm [2].

II. XÃ HỘI

1. Y tế

Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, luỹ kế từ đầu năm đến ngày 30/4/2023 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 103 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 06 trường hợp Tay - chân - miệng; 18 trường hợp lao phổi; 02 trường hợp sốt rét; 01 trường hợp thương hàn; 02 trường hợp viêm gan vi rút B; 2.064 trường hợp cúm; 01 trường hợp lỵ amít; 03 trường hợp lỵ trực tràng; 04 trường hợp quai bị; 247 trường hợp thủy đậu; 589 trường hợp tiêu chảy; 08 trường hợp viêm gan vi rút khác; 23 trường hợp bệnh không thuộc danh mục. Có 01 trường hợp tử vong do tiêu chảy.

Tháng 5, số ca mắc COVID-19 tiếp tục tăng, trước diễn biến mới của dịch, Uỷ ban nhân dân tỉnh giao ngành Y tế tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch đảm bảo không để dịch bùng phát trở lại. Sở Y tế bám sát tình hình dịch bệnh, kịp thời tham mưu với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 thực hiện các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Y tế về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, đảm bảo chủ động, kịp thời, kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh trên địa bàn.

Theo báo cáo của Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, tính đến thời điểm 6h00 ngày 18/5/2023, toàn tỉnh có 2.048.545 liều vắc xin đã được tiêm, trong đó 675.460 người đã tiêm 2 mũi; 151.727 người đã tiêm mũi bổ sung; 407.840 người đã tiêm mũi nhắc lại 1 (mũi 3); 94.967 người đã tiêm mũi nhắc lại 2 (mũi 4). Số ca mắc COVID-19 cộng dồn từ đầu năm đến 06h00 ngày 18/5/2023 là 619 ca (trong đó đang điều trị tại bệnh viện là 25, điều trị tại nhà là 150). Số ca tử vong cộng dồn: 0.

Tình hình sốt rét toàn tỉnh, lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 4/2023, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 65 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 2 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 9.808 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,02%.

Tính đến ngày 30/4/2023, lũy tích nội tỉnh số người nhiễm HIV là 476 người; số bệnh nhân AIDS là 408 người; số bệnh nhân tử vong là 142 người. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, khám, điều trị bệnh nhân HIV/AIDS, hướng dẫn các hành vi an toàn dự phòng lây nhiễm HIV, nhằm hạn chế sự lây nhiễm HIV trong nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng [3].

Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Tính đến cuối tháng 4 năm 2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm ở xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy với 03 ca mắc, các bệnh nhân đã được nhập viện điều trị kịp thời nên không có tử vong, ngoài ra còn có 48 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

2. Giáo dục và đào tạo

Trong tháng 5/2023, Sở Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn các cấp học, đôn đốc các cơ sở giáo dục bám sát kế hoạch năm học để triển khai chương trình học kỳ II đảm bảo tiến độ và chất lượng; hướng dẫn các cơ sở giáo dục thực hiện công tác ôn tập, chuẩn bị cho Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2023-2024 và Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023.

 Sở GDĐT đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số 953/QĐ-UBND ngày 25/4/2023 về việc thành lập Ban Chỉ đạo thi, tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2023-2024 tỉnh Quảng Bình; Quyết định số 970/QĐ-UBND ngày 26/4/2023 về việc giao chỉ tiêu phát triển lớp, học sinh các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở và trung học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Bình năm học 2023-2024; Quyết định số 1100/QĐ-UBND ngày 10/5/2023 về việc phê duyệt Danh mục sách giáo khoa lớp 4, lớp 8 và lớp 11 sử dụng trong các cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Sở GDĐT đã tổ chức thành công Hội thi “Giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp tiểu học” cấp tỉnh năm học 2022-2023 với 67 giáo viên dự thi. Kết quả: 100% giáo viên đạt danh hiệu giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp tỉnh. Trong đó có 34 giáo viên đạt giải (01 giải Nhất, 11 giải Nhì, 09 giải Ba, 13 giải Khuyến khích). Hội thi hướng đến mục tiêu phát hiện, công nhận, tôn vinh, động viên và tạo cơ hội tạo để giáo viên được giao lưu học hỏi; phát triển chuyên môn nghiệp vụ, đa dạng hóa các hình thức học tập, xây dựng môi trường học tập thân thiện, hạnh phúc cho học sinh tiểu học. Hội thi đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tạo nên luồng gió mới trong phong trào đổi mới, sáng tạo dạy và học.

Trong 02 ngày 05 và 06/5/2023, gần 11.000 học sinh lớp 12 của 40 trường THPT, trung tâm GXTX Quảng Bình, các trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã tham gia Kỳ thi thử tốt nghiệp THPT năm 2023. Thông qua kỳ thi thử, các đơn vị chỉ đạo các tổ chuyên môn trao đổi, rút kinh nghiệm việc dạy, học; xây dựng kế hoạch ôn tập, bồi dưỡng sát với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023 sắp tới. Đồng thời, rút kinh nghiệm trong công tác tổ chức thi, tiếp tục quán triệt Quy chế thi, đảm bảo các cán bộ, giáo viên và học sinh nắm vững Quy chế thi.

Ngày 18/5, Sở GDĐT Quảng Bình phối hợp Tổ chức cứu trợ trẻ em Việt Nam tổ chức Hội thảo giới thiệu mô hình Trường học an toàn, chất lượng. Mô hình này được triển khai từ tháng 7/2021 đến nay, tại 12 trường học thuộc 2 huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Dự án do Tổ chức cứu trợ trẻ em Hàn Quốc hỗ trợ, với tổng kinh phí hơn 51 tỷ đồng. Dự án “Môi trường học tập an toàn và chất lượng” được triển khai gần 2 năm qua đã phát huy những hiệu quả tích cực [4]

3. Văn hóa, thể dục thể thao

Các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn 48 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30/4 và Quốc tế Lao động 1/5, ngày chiến thắng Điện Biên Phủ 07/5, kỷ niệm 133 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2023) được các địa phương tổ chức chu đáo tạo không khí vui tươi nhưng vẫn tiết kiệm và đảm bảo an toàn phòng dịch. Trong đó, nổi bật là Lễ hội đua thuyền truyền thống năm 2023; triển khai lập hồ sơ khoa học Hát ru Cảnh Dương; Hát Kiều trên địa bàn tỉnh trình UBND tỉnh đề nghị Bộ VHTTDL xét đưa vào Danh mục Văn hóa phi vật thể quốc gia; hướng dẫn, chỉ đạo BCĐ các huyện, thị xã, thành phố triển khai phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa năm 2023

Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, truyền dạy văn hóa phi vật thể tại xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh; Lớp trao truyền kỹ năng Hát Tuồng bội Khương Hà tại xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch theo Dự án 6 trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn tỉnh; tham gia Hội thi tuyên truyền lưu động “Biển và Hải đảo Việt Nam” tại Hải Phòng.

Chỉ đạo hoàn thin h sơ trình UBND tnh xếp hng DTLS cp tnh đối vi di tích Đình Xuân Lai, xã Xuân Thy, huyn L Thy; t chc Hi ngh thng nht khu vc bo v di tích dòng h T xã Qung Văn, th xã Ba Đồn; t chc chiếu phim kết hp vi biu din văn ngh phc v đồng bào min núi; nâng cao cht lượng phát hành bn tin văn hóa s tháng 5; xây dng chương trình biu din chào mng và bế mc Ngày hi Văn hóa, th thao các dân tc trên địa bàn tnh ln th II; chương trình chào mng ti Hi ngh gp mt, biu dương, khen thưởng nhng gia đình tiêu biu trong công tác gia đình trên địa bàn tnh Qung Bình ln th I, năm 2023.

Thư viện cp, đổi 160 th bn đọc; x lý k thut 553 bn sách; Nhp CSDL 180 biu ghi, tiếp nhn sách b sung t nhà xut bn Kim Đồng và sách biếu tng t các nhà xut bn.

Đoàn Nghệ thuật truyền thống xây dựng chương trình, biu din tại Đại hội công đoàn huyện Quảng Trạch, chương trình phục vụ nhân dân miền núi huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy.

Thể thao phong trào nổi bật như: Ban hành Điu l t chc gii Khiêu vũ th thao Đồng din dân vũ, Zumba Fitness, Nhy hin đại, Arobic Fitness tnh Qung Bình m rng ln th II năm 2023; Điều lệ giải bóng đá vô địch tỉnh Quảng Bình năm 2023; Điều lệ môn Bóng bàn - Cầu lông gia đình tỉnh Quảng Bình năm 2023; Điều lệ các môn thể thao tại Ngày hội Văn hóa - Thể thao toàn tỉnh lần thứ II năm 2023 ; chp thun ch trương cho Câu lc b ô tô địa hình thành ph Hà Ni t chc Gii đua xe ô tô địa hình quc tế RFC Vit Nam 2023 ti Qung Bình; phi hp vi Liên đoàn Lao động tnh t chc gii Bóng chuyn CNVC-LĐ năm 2023; trin khai xây dng kế hoch t chc L phát động toàn dân tp luyn môn bơi phòng, chng đui nước trên địa bàn tnh năm 2023.

Thể thao thành tích cao đã tham gia thi đấu và đạt được một số kết quả cao tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á năm 2023 (SEA Games 32), 3 vận động viên (VĐV) của thể thao Quảng Bình gồm Nguyễn Huy Hoàng (môn bơi), Nguyễn Thị Hương (môn điền kinh), Trương Xuân Nguyên (môn đua thuyền truyền thống) đã xuất sắc đoạt 8 huy chương. Trong đó có 5 huy chương vàng (HCV), 1 huy chương bạc (HCB) và 2 huy chương đồng (HCĐ). Tổng số huy chương thể thao thành tích cao tỉnh Quảng Bình đạt được là 114 HC các loại, trong đó có 8 HC quốc tế [5].

4. Trật tự an toàn xã hội

Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng (từ 16/4/2023-16/5/2023), trên địa bàn tỉnh xảy ra 10 vụ tai nạn giao thông, tăng 3 vụ so với tháng trước, tăng 2 vụ so với cùng kỳ năm 2022; trong đó tai nạn giao thông đường bộ 10 vụ, tai nạn giao thông đường sắt và đường thủy không xảy ra. Số người chết do tai nạn giao thông 3 người, bằng tháng trước, giảm 6 người so với cùng kỳ năm 2022. Số người bị thương do tai nạn giao thông 10 người, tăng 3 người so với tháng trước, tăng 2 người so với cùng kỳ năm 2022.

Hình 9. Tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh


Lũy kế 5 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 36 vụ tai nạn giao thông, giảm 04 vụ so với cùng kỳ năm 2022, trong đó đường bộ 35 vụ, giảm 05 vụ so với cùng kỳ; đường sắt 01 vụ tăng 01 vụ so với cùng kỳ, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 18 người, giảm 11 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 17 người, giảm 12 người so với cùng kỳ; đường sắt 01 người tăng 01 người so với cùng kỳ, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 34 người, tăng 4 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 34 người, tăng 4 người so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2022.

Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng 5 trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ cháy nào. Lũy kế 5 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 4 vụ cháy với giá trị thiệt hại tạm ước tính 532,5 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2022, số vụ cháy tăng 02 vụ, giá trị thiệt hại tạm ước giảm 985,5 triệu đồng.

5. Thiệt hại do thiên tai

Từ đầu tháng 5 đến nay trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra mưa dông kèm theo lốc xoáy và gió giật mạnh (mưa lớn từ đêm 07/5 đến rạng sáng 08/5/2023) đã làm 1 người chết; gãy đổ 5.378 ha lúa. Ước tính giá trị thiệt hại do mưa lớn khoảng 50.150 triệu đồng. Luỹ kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ thiên tai, ước tính tổng giá trị thiệt hại 50.150 triệu đồng.

6. Tình hình nổi bật khác

Sở Lao động và Thương binh đã tham mưu UBND tỉnh chấp thuận vị trí công việc sử dụng người lao động nước ngoài làm việc của 17 doanh nghiệp, đơn vị trên địa bàn tỉnh; chấp thuận cho 01 nhà thầu tuyển 32 vị trí công việc là người lao động nước ngoài sau khi không tuyển được lao người Việt Nam; cấp giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm cho 04 doanh nghiệp; phê duyệt quỹ tiền lương công ty TNHH MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thuộc UBND tỉnh quản lý; cho ý kiến các nội dung về lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng năm 2022 và giao nhiệm vụ cho người đại diện phần vốn Nhà nước để triển khai thực hiện quản lý lao động tiền lương, thù lao, tiền thưởng năm 2023 đối với các công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước; cấp kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề qua Thẻ học nghề cho 310 thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an (đợt 1 năm 2023) với kinh phí 3,775 tỷ đồng.

Cấp mới, gia hạn giấy phép lao động cho 38 người lao động nước ngoài và xác nhận cho 01 người nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động vào làm việc trên địa bàn tỉnh; thông báo tuyển lao động đi làm việc ở nước ngoài của 16 doanh nghiệp; xác nhận đăng ký Hợp đồng lao động giao kết trực tiếp với doanh nghiệp nước ngoài cho 26 lao động; tiếp nhận đăng ký nội quy lao động của 07 đơn vị; hỗ trợ kinh phí huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động cho 02 doanh nghiệp với tổng kinh phí gần 62 triệu đồng; xác nhận khai báo sử dụng máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động cho 03 công ty; tổ chức Lễ phát động Tháng an toàn, vệ sinh lao động năm 2023, đồng thời treo băng rôn tuyên truyền về an toàn, vệ sinh lao động trên các trục đường và trong Khu Công nghiệp trên địa bàn thành phố Đồng Hới từ ngày 04/5/2023 đến ngày 25/5/2023; kiểm tra pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động tại 01 công ty; kiểm tra, thẩm định đối tượng miễn, giảm học phí, hưởng chính sách nội trú tại 02 trường cao đẳng; ban hành kế hoạch kiểm tra việc thực hiện pháp luật giáo dục nghề nghiệp năm 2023 tại 08 đơn vị, đến nay đã kiểm tra 03 đơn vị; cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp cho 01 công ty; tổ chức Ngày hội tư vấn tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp năm 2023,…

Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh tổ chức 05 phiên giao dịch việc làm; tư vấn, giới thiệu, cung ứng việc làm xuất khẩu lao động và du học: 1.651 lao động; giải quyết hưởng bảo hiểm thất nghiệp cho 318 người; 05 người được hỗ trợ học nghề; tiếp nhận và tổ chức đào tạo cho 81 học viên tham gia.

Trong 5 tháng đầu năm, giải quyết trợ cấp hàng tháng: 706 trường hợp, trợ cấp 1 lần: 1.166 trường hợp; công tác mộ, nghĩa trang liệt sĩ: 80 trường hợp; công tác quản lý hồ sơ: 1.371 trường hợp; hướng dẫn, trả lời: 73 đơn thư; giới thiệu giám định y khoa: 07 trường hợp; đề nghị cấp lại Bằng Tổ quốc ghi công: 54 trường hợp; ban hành Quyết định điều dưỡng cho 8.520 người có công với số tiền hơn 14,823 tỷ đồng. Tạm đình chỉ chế độ trợ cấp người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học để đối tượng bổ sung giấy tờ chứng minh vùng miền theo Kết luận của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội./.

[1] Nguồn: Báo cáo số 235/BC-CNTY ngày 19/5/2023 của Chi cục Chăn nuôi và Thú y 

[2] Nguồn: Báo cáo số 359/BC-QUB ngày 16/5/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam-Chi nhánh Quảng Bình.

[3] Nguồn: Báo cáo số 607/BC-KSBT ngày 17/5/2023 của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật, Sở Y tế Quảng Bình

[4] Nguồn: Báo cáo số 145/BC-SGDĐT ngày 19/5/2023 của Sở GDĐT Quảng Bình

[5] Nguồn: Báo cáo số 809/BC-SVHTT ngày 23/5/2023 của Sở Văn hóa và Thể thao Quảng Bình

[Trở về]