THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2022 tỉnh Quảng Bình 

I. KINH TẾ

1. Nông nghiệp

a) Trồng trọt

Nhìn chung, triển khai sản xuất cây hàng năm năm 2022 trong đầu các vụ điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi. Công tác gieo trồng các loại cây hàng năm đều đảm bảo tiến độ và đúng lịch thời vụ; các giống lúa được đáp ứng đầy đủ, có chất lượng cao; công tác tưới, tiêu nước chủ động, điều tiết hợp lý phục vụ tốt cho sản xuất. Tuy nhiên, sản xuất cây hàng năm trong vụ Đông Xuân 2022 (vụ sản xuất chính của cả năm) gặp nhiều khó khăn do cuối vụ có mưa lớn làm nhiều diện tích lúa và hoa màu bị ngập, gãy đổ nên đã ảnh hưởng tới năng suất. Theo đó, năng suất, sản lượng lúa và một số cây trồng chủ yếu giảm so với năm trước.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm giảm so với năm trước, giảm chủ yếu ở cây lúa, ngô, sắn và lạc. Các địa phương đã tích cực thực hiện chuyển đổi cây trồng, một số cây do kém hiệu quả đang thực hiện chuyển sang trồng cây hàng năm khác như cây rau màu, các loại cây gia vị,... mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm thực hiện 83.912,7 ha, giảm 1,6% so với năm trước. Trong đó: Diện tích vụ Đông Xuân 47.458,0 ha, giảm 1,4%; diện tích vụ Hè Thu 36.077,7 ha, giảm 1,7%; diện tích vụ Mùa 377 ha, giảm 16,8% so với năm trước. Nguyên nhân diện tích gieo trồng cây hàng năm giảm do giá các loại vật tư phân bón, giống, chi phí làm đất tăng cao, nên nhiều hộ bỏ ruộng hoang hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản,…; bên cạnh đó, một số diện tích đất bị thu hồi do các dự án của Nhà nước triển khai giải phóng mặt bằng.

Diện tích gieo trồng một số cây trồng chủ yếu cả năm: Cây lúa thực hiện 53.002,4 ha, giảm 1,2% (Trong đó: Vụ Đông Xuân 29.432,2 ha, giảm 0,6%; vụ Hè Thu 23.193,2 ha, giảm 1,7%; vụ Mùa 377 ha, giảm 16,8%); ngô 4.532,9 ha, giảm 3,9%; khoai lang 2.999 ha, bằng năm trước; sắn 6.326,4 giảm 3,8%; lạc 3.978 ha, giảm 4,2%; rau các loại 6.104,6 ha, tăng 0,8%; đậu các loại 1.495,8 ha, giảm 0,8% so với năm trước.

Năng suất gieo trồng một số cây trồng cả năm: Cây lúa đạt 50,99 tạ/ha, giảm 6,6% (Trong đó: Vụ Đông Xuân đạt 59,38 tạ/ha, giảm 7,5%; vụ Hè Thu đạt 40,99 tạ/ha, giảm 5,6%; vụ Mùa đạt 11,20 tạ/ha, tăng 10,9%); ngô đạt 59,07 tạ/ha, giảm 3,4%; khoai lang đạt 77,51 tạ/ha, giảm 1,8%; sắn đạt 193,08 tạ/ha, tăng 3,7%; lạc đạt 23,77 tạ/ha, giảm 2,5%; rau các loại đạt 94,37 tạ/ha, giảm 9,3%; đậu các loại đạt 9,14 tạ/ha, tăng 12,6% so với năm trước.

Sản lượng lương thực năm 2022 đạt 297.252,9 tấn, giảm 7,7% so với năm trước. Trong đó: Sản lượng lúa đạt 270.259,1 tấn, giảm 7,8%; ngô đạt 26.777,8 tấn, giảm 7,1%; sản lượng kê đạt 216 tấn, giảm 22,8% so với năm trước. Sản lượng một số cây trồng khác: Khoai lang đạt 23.245,1 tấn, giảm 1,8%; sắn đạt 122.150 tấn, tăng 1,43%; lạc đạt 9.455 tấn, giảm 6,6%; rau các loại đạt 57.607,6 tấn, giảm 8,5% so với năm trước.

* Sản xuất vụ Đông Xuân 2022 - 2023

Triển khai sản xuất vụ Đông Xuân 2022 - 2023 trong thời tiết khá thuận lợi, tạo điều kiện cho công tác chuẩn bị và triển khai gieo trồng các loại cây hàng năm. Theo đó, tiến độ gieo trồng các loại cây tăng so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính tháng 11, diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân thực hiện 2.217,3 ha, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích gieo trồng một số cây trồng chủ yếu thực hiện như sau: Cây ngô 308 ha, tăng 1,0%; khoai lang 520 ha, tăng 2,0%; sắn 83 ha, tăng 1,2%; rau, đậu các loại 1.090 ha, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 1. Tiến độ gieo trồng một số cây hàng năm vụ Đông Xuân 2022 - 2023

 

Hiện nay, các địa phương đang tập trung đẩy nhanh tiến độ làm đất; thực hiện công tác chuẩn bị giống, phân bón, triển khai tu sửa, nạo vét kênh mương nhằm tạo thuận lợi thực hiện sản xuất vụ Đông Xuân 2022 - 2023. Trước mắt, tập trung triển khai sản xuất rau, màu.

b) Chăn nuôi

Sản xuất chăn nuôi ổn định và tiếp tục có bước phát triển hơn, mặc dù gặp phải một số khó khăn dịch bệnh, giá cả nhưng chăn nuôi trên địa bàn tỉnh vẫn đạt khá cả về số lượng cũng như sản lượng các loại thịt hơi xuất chuồng của đàn vật nuôi. Dịch bệnh cơ bản được kiểm soát ra nên người chăn tích cực tái đàn hơn. Theo đó, đàn trâu, bò phát triển trở lại, đạt xấp xỉ năm ngoái, đàn gia cầm phát triển khá ổn định, đàn lợn tăng khá do tái tạo lại đàn.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 11 đạt 6.152 tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 181 tấn, tăng 8,4%; thịt bò 728 tấn, tăng 1,7%; thịt lợn 3.016 tấn, tăng 9,4%; thịt gia cầm 2.227 tấn, tăng 8,3% (trong đó: thịt gà 1.975 tấn, tăng 3,8%) so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng 11 tháng đạt 73.689,8 tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 1.794 tấn, tăng 2,7%; thịt bò 9.039,5 tấn, tăng 5,5%; thịt lợn 40.417 tấn, tăng 11,3%; thịt gia cầm 22.439,3 tấn, tăng 3,1% (trong đó: thịt gà 18.430 tấn, tăng 6,8%) so với cùng kỳ năm trước.

Hình 2. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng

 

Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm:

- Dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn 2 xã (Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn) chưa qua 21 ngày. Lũy kế từ ngày 01/01/2022 đến ngày 01/11/2022, dịch tả lợn châu Phi xảy ra tại 184 hộ/58 thôn/25 xã/5 huyện, đã tiêu hủy 1.729 con lợn với trọng lượng 161.231 kg.

- Bệnh lở mồm long móng, cúm gia cầm, viêm da nổi cục, tai xanh trên đàn gia súc, gia cầm không xảy ra.

2. Lâm nghiệp

Thời tiết trong tháng 11 tương đối thuận lợi, các chủ rừng tiếp tục thực hiện khai thác gỗ rừng trồng; đồng thời đẩy nhanh tiến độ trồng rừng theo kế hoạch năm 2022.

Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 11 đạt 1.960,2 ha, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Thời tiết mát mẻ, mưa rải rác nên các địa phương, đơn vị và hộ dân trong tỉnh đẩy nhanh tiến độ trồng rừng, đảm bảo đúng kế hoạch đề ra. Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung 11 tháng đạt 7.027,2 ha, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng gỗ khai thác tháng 11 năm 2022 đạt 56.500 m3, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước; 11 tháng đạt 543.206 m3, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng củi khai thác tháng 11 ước tính đạt 16.200 ste, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước; 11 tháng đạt 340.795 ste tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.

Một số lâm sản như luồng, tre, mây,… 11 tháng năm 2022 thu hoạch đều tăng hơn so với cùng kỳ năm trước do nhu cầu phục vụ chế biến công nghiệp và đời sống. Các sản phẩm thu nhặt từ rừng được người dân khai thác và thu nhặt nhiều như: rau rừng, nấm, măng tươi, lá dong, cây làm thuốc.

Trong tháng 10, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 1 vụ phá rừng trên cát tại khu vực Bàu Sen, xã Sen Thuỷ khoảng 12 ha, trong đó có 11,6 ha thuộc Ban Quản lý khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong quản lý. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo Chi cục Kiểm lâm phối hợp cùng các đơn vị cơ quan chức năng kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ xử lý nghiêm theo quy định pháp luật.

3. Thủy sản

Thời tiết tương đối thuận lợi nên sản xuất thuỷ sản tháng 11 trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, sản lượng thuỷ sản tăng khá so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thủy sản tháng 11 thực hiện 6.206 tấn, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản 11 tháng thực hiện 86.645 tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 70.706 tấn, tăng 3,4%; tôm đạt 5.716 tấn, tăng 2,2%; thủy sản khác đạt 10.223 tấn, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Sản lượng thủy sản

 

a) Khai thác

Thời tiết tương đối thuận lợi, cùng với đó trên ngư trường xuất hiện nhiều tôm, cá, bà con ngư dân tích cực cho tàu ra khơi, bám biển nên hoạt động khai thác thủy sản tháng 11 tăng cao.

Ước tính sản lượng khai thác tháng 11 đạt 4.992 tấn, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính sản lượng khai thác 11 tháng đạt 74.908 tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng 11 tháng chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 63.070 tấn, tăng 3,5%; tôm đạt 1.841 tấn, tăng 4,6%; thuỷ sản khác đạt 9.997 tấn, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước. Sản phẩm chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 71.017 tấn, tăng 4,9%; khai thác nội địa 3.891 tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng 11, ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tàu cá; tổ chức tuần tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý nghiêm, không cho ra biển hoạt động đối với các tàu không chấp hành đúng các quy định về khai thác thuỷ sản. Trong những tháng cuối năm cần đẩy mạnh khai thác xa bờ, dịch vụ hậu cần nghề cá. Tăng cường năng lực đánh bắt xa bờ, gắn với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản ven bờ, chú trọng khai thác các đối tượng có giá trị xuất khẩu để nâng cao giá trị kinh tế thuỷ sản.

b) Nuôi trồng

Tình hình nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh cơ bản giữ ổn định. Ước tính tháng 11, sản lượng nuôi trồng thu hoạch đạt 1.214 tấn, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước. Một số sản phẩm nuôi trồng đã được thu hoạch từ những tháng trước để tránh thiệt hại do mưa, lũ gây ra nên sản lượng nuôi trồng trong tháng 11 giảm. Hiện nay các hộ nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục bảo vệ, gia cố hồ, ao nuôi để chuẩn bị nuôi phục vụ cho tết Nguyên đán.

Ước tính 11 tháng, sản lượng nuôi trồng thu hoạch đạt 11.737 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng 11 tháng chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 7.636 tấn, tăng 2,2%; tôm đạt 3.875 tấn, tăng 1,0%; thuỷ sản khác đạt 226 tấn, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước.

4. Công nghiệp

Trong tháng 11, hoạt động sản xuất ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Trong đó, tập trung ở một số ngành như: Sản xuất và phân phối điện; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ; sản xuất trang phục,… Tuy nhiên, do tình trạng gián đoạn nguồn cung nguyên vật liệu, chi phí vận tải, chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất tăng cao làm ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm một số doanh nghiệp; việc nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất từ thị trường Trung Quốc vẫn đang gặp khó khăn.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11 năm 2022 tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 4,8%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 31,1%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 11 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 15,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,1%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 89,0%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 4. Chỉ số sản xuất công nghiệp

 

Chỉ số sản xuất 11 tháng năm 2022 của một số ngành cấp 2 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất và phân phối điện tăng 89,0%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 61,0%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn ghế) tăng 46,2%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 23,4%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 21,8%; sản xuất trang phục tăng 21,2%; khai thác quặng kim loại tăng 11,1%; khai khoáng khác tăng 15,7%. Một số ngành cấp 2 tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 2,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 0,2%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 58,8%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 23,9%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 10,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 2,9%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 14,2% so với cùng kỳ năm trước.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong 11 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước: Quặng titan đạt 62,5 nghìn tấn, tăng 11,1%; đá xây dựng đạt 3,1 triệu m3, tăng 4,2%; cao lanh đạt 79,8 nghìn tấn, tăng 51,0%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 24,0 nghìn tấn, tăng 32,8%; tinh bột sắn đạt 12,1 nghìn tấn, giảm 27,1%; bia đóng chai đạt 1,9 triệu lít, giảm 21,2%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 5,4 triệu cái, tăng 23,2%; áo sơ mi đạt 12,3 triệu cái, tăng 30,5%; dăm gỗ đạt 452,3 nghìn tấn, tăng 70,2%; ván ép từ gỗ đạt 84,1 nghìn m3, giảm 5,4%; kính cường lực đạt 2,5 nghìn tấn, tăng 46,1%; clinker thành phẩm đạt 2,8 triệu tấn, giảm 11,7%; xi măng đạt 1,4 triệu tấn, giảm 14,9%; điện thương phẩm đạt 1.002 triệu kwh, tăng 6,0%; điện gió đạt 467,3 triệu kwh.

5. Vốn đầu tư

UBND tỉnh đã ban hành nhiều công văn yêu cầu các đơn vị, địa phương và các chủ đầu tư dự án khẩn trương triển khai một số nội dung, đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022; đồng thời tiếp tục tham mưu báo cáo UBND tỉnh về những bất cập, vướng mắc ảnh hưởng đến việc thi công và giải ngân vốn đầu tư. Tình hình thực hiện vốn đầu tư thuộc nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trong tháng 11 và 11 tháng năm 2022 tiếp tục có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước (năm 2021 dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và kéo dài, giá cả nguyên vật liệu tăng cao, việc huy động nhân công, vật tư, thiết bị để đẩy nhanh tiến độ thi công một số dự án gặp nhiều khó khăn; mặt khác, năm nay tỉnh đã huy động và bố trí nguồn vốn đầu tư lớn nhằm khôi phục, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội năm 2022 và những năm tiếp theo).

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 11 năm 2022 ước tính đạt 484,8 tỷ đồng, tăng 17,8% so với tháng trước và tăng 37,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 348,2 tỷ đồng, tăng 38,0%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 84,2 tỷ đồng, tăng 24,0%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 52,4 tỷ đồng, tăng 66,3% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 11 tháng năm 2022, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý đạt 4.023,3 tỷ đồng, tăng 33,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 2.729,1 tỷ đồng, tăng 25,2%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 771,5 tỷ đồng, tăng 53,8%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 522,7 tỷ đồng, tăng 62,1% so với cùng kỳ năm trước.

Xác định việc đẩy mạnh giải ngân và thực hiện vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh trong năm 2022, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nên lãnh đạo các cấp, các ngành liên quan quyết tâm đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án và tiến độ thực hiện giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022, phấn đấu tỷ lệ giải ngân năm 2022 ở mức cao nhất theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ.

6. Thương mại, dịch vụ

a) Tổng mức bán lẻ hàng hoá

Tháng 11, các hoạt động trao đổi, mua bán, lưu chuyển hàng hoá trên thị trường khá sôi động, nhất là các mặt hàng nhóm lương thực, thực phẩm, hàng may mặc tăng mạnh trong những tháng cuối năm,... Nguồn cung các mặt hàng dồi dào, đồng thời nhu cầu tiêu dùng hàng hóa tăng, vì vậy tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 11/2022 có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 11/2022 ước tính đạt 4.130,4 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 17,3% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 44.107,3 tỷ đồng, tăng 14,2% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm hàng hóa đều tăng cao trên 10%, chủ lực là nhóm xăng, dầu các loại có mức tăng cao nhất 36,7%. Do Chính phủ điều tiết giá xăng dầu tăng cao bởi ảnh hưởng của giá nhiêu liệu trên thế giới làm tác động tăng đến các sản phẩm liên quan khác như: nhóm nhiên liệu khác tăng 27,7%; nhóm ô tô các loại (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 19,3%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 13,1%; nhóm hàng may mặc tăng 13,7%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 13,1%; nhóm doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 11,3%.

Hình 5. Tổng mức bán lẻ hàng hóa

 

b) Lưu trú, ăn uống và du lịch

Tháng 11 năm 2022, hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch giảm so với tháng trước do thời tiết chuyển sang mùa mưa.

- Dịch vụ lưu trú:

Doanh thu hoạt động lưu trú tháng 11 ước tính đạt 34,6 tỷ đồng, giảm 7,7% so với tháng trước và gấp 16,4 lần so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 409,7 tỷ đồng, gấp 4,7 lần so với cùng kỳ.

Hình 6. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống

 

Số lượt khách lưu trú tháng 11 ước tính đạt 107.600 lượt khách, giảm 3,5% so với tháng trước và gấp 16,0 lần so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 1.213.248 lượt khách, gấp 4,8 lần so với cùng kỳ.

Số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 11 ước tính đạt 2.600 lượt khách, giảm 12,9% so với tháng trước và gấp 14,2 lần so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 26.667 lượt khách, gấp 4,4 lần so với cùng kỳ.

Ngày khách tháng 11 ước tính đạt 109.370 ngày khách, giảm 4,0% so với tháng trước và gấp 16,2 lần so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 1.266.593 ngày khách, gấp 4,5 lần so với cùng kỳ.

- Dịch vụ ăn uống:

Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 11 ước tính đạt 309,4 tỷ đồng, giảm 7,9% so với tháng trước, tăng 19,8% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 3.784,9 tỷ đồng, tăng 25,8% so với cùng kỳ.

- Du lịch lữ hành:

Ước tính tháng 11 doanh thu hoạt động lữ hành đạt 28,3 tỷ đồng, giảm 6,5% so với tháng trước, gấp 18,6 lần so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 320,7 tỷ đồng, gấp 4,9 lần so với cùng kỳ.

Hình 7. Doanh thu dịch vụ du lịch, lữ hành

 

Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 11 ước tính đạt 44.400 lượt khách, giảm 6,9% so với tháng trước, gấp 40,43 lần so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 479.462 lượt khách, gấp 4,7 lần so với cùng kỳ.

Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 11 ước tính đạt 2.400 lượt khách, giảm 1,2% so với tháng trước, gấp 24 lần so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 23.570 lượt khách, gấp 6,0 lần so với cùng kỳ.

c) Dịch vụ khác

Tháng 11 hoạt động dịch vụ khác tăng so với tháng trước. Ước tính doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng 11 đạt 156,4 tỷ đồng, tăng 0,2% so với tháng trước và tăng 23,4% so với cùng kỳ, trong đó nhiều nhóm dịch vụ tăng cao trên 20% đó là: nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 26,5%; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 31,4%; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 34,1%; nhóm dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 20,2%; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 27,4%. Tính chung 11 tháng 2022, doanh thu hoạt động dịch vụ khác đạt 1.673,6 tỷ đồng, tăng 23,4% so với cùng kỳ.

d) Hoạt động vận tải

Tháng 11, thời tiết thuận lợi hơn, không xảy ra lũ, lụt lớn như các năm trước; bên cạnh đó, các ngành kinh tế hồi phục và phát triển sau thời gian bị tác động bởi dịch COVID-19 đã tạo đà thúc đẩy hoạt động vận tải phát triển. Tổng doanh thu vận tải và doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11/2022 ước tính đạt 455,7 tỷ đồng, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 11 tháng, tổng doanh thu vận tải kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 4.348,7 tỷ đồng, tăng 14,5%, trong đó: vận tải hành khách tăng 22,4%, vận tải hàng hóa tăng 14,1%, dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 8. Doanh thu hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải

 

Vận tải hành khách: Ước tính tháng 11/2022, số lượt hành khách vận chuyển đạt 2,9 triệu hành khách, tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 24,5% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển đạt 123,6 triệu hành khách.km, tăng 3,4% so với tháng trước và tăng 18,4% so với cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng năm 2022, số lượt hành khách vận chuyển đạt 28,6 triệu hành khách, tăng 18,9%; số lượt hành khách luân chuyển đạt 1.299,4 triệu hành khách.km, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước.

Vận tải hàng hóa: Ước tính tháng 11/2022, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 2,9 triệu tấn, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 14,6% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 222,4 triệu tấn.km, tăng 4,4% so với tháng trước và tăng 19,4% so với cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng năm 2022, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 27,8 triệu tấn, tăng 9,9%; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 1.912,7 triệu tấn.km, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước.

đ) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số Đô la Mỹ

* Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Quảng Bình tháng 11 tăng 0,15% so với tháng trước, tăng 5,99% so với kỳ gốc 2019, tăng 0,34% so với cùng kỳ năm trước và tăng 0,44% so tháng 12 năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2022 chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,38% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: nhóm hàng hóa tăng 3,03%; nhóm dịch vụ tăng 1,11%). Giá vàng tháng này tăng 1,73%, giá đô la Mỹ tăng 3,14% so với tháng trước.

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 4 nhóm tăng, 2 nhóm giảm và 5 nhóm không đổi so với tháng trước, cụ thể như sau: Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,04%; nhóm giao thông tăng 1,77%; nhóm giáo dục tăng 0,81%; nhóm văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,02%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,09%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,37%; các nhóm: Nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm hàng hoá và dịch vụ khác có chỉ số không đổi so với tháng trước.

Nguyên nhân làm tăng CPI tháng 11 năm 2022 so với tháng trước: Liên Bộ Công Thương - Tài chính ra quyết định điều chỉnh giá xăng dầu tăng vào ngày 01/11/2022 và ngày 11/11/2022, bình quân giá xăng dầu tháng 11 tăng so với tháng 10/2022, do đó, nhóm nhiên liệu tăng 5,54% đã tác động làm cho chỉ số giá nhóm giao thông tăng 1,77%; từ ngày 01/11/2022, giá gas trên địa bàn tỉnh điều chỉnh tăng 26.000 đồng/bình 12kg, làm chỉ số giá tiêu dùng mặt hàng gas tăng 6,27% so với tháng trước; nhóm giáo dục tăng 0,81% so với tháng trước nguyên nhân do học phí một số trường giáo dục mầm non tư thục, trung học cơ sở tư thục trên địa bàn tỉnh tăng so với tháng trước.

* Chỉ số giá vàng 99,99%

Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước, bình quân tháng 11/2022 giá vàng tăng 1,73% so với tháng trước, giá vàng dao động quanh mức 5,25 triệu đồng/chỉ, tăng 36% so với kỳ gốc 2019, tăng 0,93% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,02% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 11 tháng , chỉ số giá vàng tăng 1,51% so với cùng kỳ.

* Chỉ số giá đô la Mỹ

Giá đô la Mỹ tháng 11 có giá bình quân 24.591 đồng/USD, tăng 3,14% so với tháng trước, tăng 6,46% so với kỳ gốc 2019, tăng 8,56% so với cùng kỳ năm trước và tăng 8,43% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 11 tháng, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 1,27% so với cùng kỳ.

7. Thu ngân sách nhà nước

Ước tính thu ngân sách nhà nước đến 30/11/2022 đạt 7.494,6 tỷ đồng, bằng 149,8% so với dự toán Trung ương giao; bằng 124,9% dự toán địa phương giao; tăng 30,8% so với thực hiện cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu cân đối ngân sách 7.298,6 tỷ đồng, đạt 152,6% dự toán Trung ương giao, đạt 130,3% dự toán địa phương giao, tăng 45,0% so với cùng kỳ năm trước; thu thuế xuất nhập khẩu 196,0 tỷ đồng, đạt 89,1% dự toán Trung ương, đạt 49% dự toán địa phương và bằng 28,1% so với cùng kỳ năm trước.

Trong thu cân đối ngân sách, so với dự toán năm có 10/15 khoản thu đạt tiến độ (91,7%) dự toán cả năm là thu từ doanh nghiệp nhà nước; thuế thu nhập cá nhân; thu phí lệ phí; thu xổ số kiến thiết; thu tiền thuê đất; thu tiền sử dụng đất; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thu cổ tức, lợi nhuận được chia; thu khác ngân sách; thu hoa lợi công sản. Còn lại 5 khoản thu chưa đạt tiến độ của dự toán năm.

Có 11/15 khoản thu có tăng trưởng so với cùng kỳ là thu từ doanh nghiệp Nhà nước TW; thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; thuế thu nhập cá nhân; thu lệ phí trước bạ; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thu tiền thuê đất; thu tiền sử dụng đất; thu xổ số kiến thiết; thu cấp quyền khai thác khoáng sản; thu cổ tức lợi nhuận được chia; thu hoa lợi công sản. Còn lại 4 khoản thu giảm so với cùng kỳ.

II. XÃ HỘI

1. Giáo dục, đào tạo

a) Giáo dục

Đầu năm học 2022 - 2023, toàn tỉnh có 577 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên (giảm 01 trường tiểu học do nhập trường từ 01/8/2022) với 8.205 lớp (tăng 90 lớp so với cuối năm học 2021 - 2022) và 245.689 học sinh (tăng 4.224 học sinh so với cuối năm học 2021 - 2022). Ngoài ra trên địa bàn tỉnh có 151 trung tâm học tập cộng đồng và 07 trung tâm ngoại ngữ - tin học, 37 trung tâm ngoại ngữ đang hoạt động.

Toàn Ngành hiện có 18.000 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và thường xuyên, trong đó: cán bộ quản lý: 1.300 người (Mầm non: 482 người; TH: 397 người; THCS: 321 người; THPT: 100 người); giáo viên: 13.644 người (Mầm non: 4.111 người; TH: 4.733 người; THCS: 3.076 người; THPT: 1.724 người); nhân viên: 3.056 người (Mầm non: 1.626 người; TH: 604 người; THCS: 665 người; THPT: 161 người).

Tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn trở lên về trình độ đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục năm 2019: cấp mầm non đạt 96,1%; tiểu học đạt 90,1%; trung học cơ sở đạt 94,7% và trung học phổ thông đạt 100%. Tuy nhiên, do chủ trương tinh giản biên chế theo lộ trình, trong khi số học sinh, lớp học tăng nhưng không có biên chế giao đủ nên tình trạng thiếu giáo viên ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy học và các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường.

Để năm học 2022 - 2023 thực hiện theo đúng kế hoạch, cấp Tiểu học đã tổ chức triển khai tốt dạy học 2 buổi/ngày; đồng bộ các lớp tập huấn cán bộ quản lý, giáo viên thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 1, lớp 2 và lớp 3. Tiếp tục triển khai Mô hình “Kết nối số trong sinh hoạt chuyên môn cấp tỉnh cho giáo viên tiếng Anh tiểu học” với nội dung sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhằm phát triển kỹ năng Nói và Viết cho học sinh tiểu học tại 250 điểm cầu với sự tham gia của gần 500 cán bộ quản lý, giáo viên tiếng Anh. Tổ chức Hội thảo sinh hoạt chuyên môn cấp tỉnh với chủ đề “Giáo dục STEM trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018” đối với cấp tiểu học thông qua hình thức trực tuyến tại 260 điểm cầu và 100% cán bộ quản lý các cấp và giáo viên tiểu học toàn tỉnh tham gia. 

Cấp Trung học đã triển khai xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường và thực hiện Chương trình giáo dục, đặc biệt quan tâm đến việc triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018; tích cực chỉ đạo công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu. Hướng dẫn thực hiện môn Lịch sử trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với bậc THPT; hướng dẫn cấu trúc đề kiểm tra đánh giá định kỳ đối với học sinh lớp 10.

Tổ chức thành công Tuần lễ học tập suốt đời năm 2022 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Kết quả, có 7/8 Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức Khai mạc tuần lễ của huyện, riêng Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Quảng Ninh được chọn để tổ chức Lễ Khai mạc điểm của tỉnh. Ban Chỉ đạo xây dựng xã hội học tập cấp tỉnh cử đại biểu dự và trao quà tại các địa điểm tổ chức Lễ Khai mạc điểm. Ngoài ra, các trường phổ thông trực thuộc Sở, các trường trung học cơ sở, tiểu học và mầm non trên địa bàn tỉnh cũng tổ chức Lễ Khai mạc cùng các hoạt động hưởng ứng Tuần lễ như: Hội thảo về chuyển đổi số, tập huấn công nghệ thông tin,…

Tích cực tạo lập tài khoản cho công dân và hỗ trợ công dân nộp hồ sơ trực tuyến lần đầu trên Cổng dịch vụ công khi công dân đến giao dịch. Từ ngày 01/9/2022 đến nay đã tạo lập tài khoản cho 29/29 công dân; đã tiếp nhận và giải quyết 64 hồ sơ thủ tục hành chính (100% sử dụng dịch vụ công mức độ 4). Kết quả đánh giá chung việc giải quyết thủ tục hành chính trên Cổng Dịch vụ công tỉnh của các sở, ban, ngành thuộc UBND tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo đạt 97,25% (xếp thứ 2 toàn tỉnh).

Ngày 15/11/2022, tại UBND thành phố Đồng Hới, Sở Giáo dục và Đào tạo cùng Công đoàn ngành Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình tổ chức Hội diễn văn nghệ toàn Ngành chào mừng kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022) với chủ đề “Khúc hát từ những mái trường”. Hội diễn có sự tham gia của gần 800 đoàn viên, giáo viên, các em học sinh đến từ 15 đội văn nghệ tiêu biểu của 8 Phòng Giáo dục và Đào tạo các huyện, thị xã, thành phố và 7 cụm thi đua của các đơn vị trực thuộc; các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên. Thông qua Hội diễn nhằm tôn vinh nghề dạy học, ca ngợi quê hương, đất nước và sự tôn kính đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; động viên đội ngũ cán bộ, nhà giáo, người lao động tích cực thực hiện các phong trào thi đua yêu nước. Đây cũng là dịp để các thầy, cô giáo, người lao động giao lưu học hỏi, thắt chặt tình đoàn kết, hữu nghị, thân ái để cùng nhau hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm học 2022 - 2023.

b) Đào tạo

Trong năm học 2022 - 2023, chỉ tiêu tuyển sinh Trường Đại học Quảng Bình là 687 chỉ tiêu hệ đại học chính quy. Theo báo cáo của Trường Đại học Quảng Bình số thí sinh trúng tuyển và đã nhập học đợt 1 tính đến ngày 15/11/2022 là 250 sinh viên. Hiện tại Trường đang tiếp tục công tác tuyển sinh các đợt bổ sung theo kế hoạch.

2. Y tế

Hiện nay, dịch sốt xuất huyết vẫn đang diễn biến phức tạp, số ca mắc trong ngày vẫn ở mức cao, từ ngày 01/11/2022 đến ngày 15/11/2022 số ca mắc trên toàn tỉnh ghi nhận là 1.053 ca. Ngành Y tế Quảng Bình cùng với các địa phương đã và đang nỗ lực rất lớn trong công tác phòng, chống dịch bệnh sốt xuất huyết, đặc biệt là các địa bàn ghi nhận số ca mắc cao, tập trung nhiều nhất là huyện Lệ Thuỷ, Bố Trạch, Quảng Ninh thành phố Đồng Hới.

Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, trong tháng 10/2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 2.098 trường hợp sốt xuất huyết Dengue, trong đó có 1 trường hợp tử vong là trẻ em tại xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh; 668 trường hợp cúm; 160 trường hợp tiêu chảy; 6 trường hợp thủy đậu; 1 trường hợp lỵ amip; 4 trường hợp tay - chân - miệng; 1 trường hợp bệnh viêm não virut khác; 3 trường hợp bệnh do virut Adeno. Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 31/10/2022 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 6.042 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 4.356 trường hợp cúm; 1.509 trường hợp tiêu chảy; 18 trường hợp viêm gan virut B; 1 trường hợp viêm gan virut C; 30 trường hợp viêm gan vi rút khác; 117 trường hợp thủy đậu; 14 trường hợp quai bị; 16 trường hợp lỵ trực trùng; 13 trường hợp lỵ amip; 6 trường hợp sốt rét; 60 trường hợp tay - chân - miệng; 2 trường hợp viêm não virut khác; 6 trường hợp bệnh do virut Adeno; 11 trường hợp lao phổi. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời, ngoài ra có 3 trường hợp bệnh dại và 1 trường hợp sốt xuất huyết tử vong.

Dịch COVID-19 tiếp tục được theo dõi sát sao, ngành Y tế vẫn đang đẩy mạnh tiêm vắc xin và thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch đảm bảo không để dịch bùng phát trở lại. Ngày 02/11/2022, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh ban hành Công văn số 2057/UBND-NCVX về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 20/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó yêu cầu các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác y tế, xác định rõ lập trường, quan điểm “Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ Nhân dân là đầu tư cho phát triển” theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc ​và nâng cao sức khoẻ Nhân dân trong tình hình mới. Các đơn vị tiếp tục tập trung quyết liệt chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống các dịch bệnh truyền nhiễm; triển khai đồng bộ, hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 và các nội dung về y tế trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. UBND các huyện, thị xã, thành phố quan tâm, chỉ đạo, tích cực hỗ trợ ngành Y tế theo đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền.

Theo báo cáo của Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, tính đến thời điểm 6h00 ngày 24/11/2022, toàn tỉnh có 2.010.758 liều vắc xin đã được tiêm, trong đó 666.039 người đã tiêm 2 mũi; 177.939 người đã tiêm mũi bổ sung; 368.277 người đã tiêm mũi nhắc lại 1 (mũi 3); 93.317 người đã tiêm mũi nhắc lại 2 (mũi 4); tổng số ca dương tính là 131.953 ca (trong đó 131.852 ca đã khỏi bệnh, 19 ca đang nhiễm và 82 ca tử vong).

Tình hình sốt rét toàn tỉnh trong tháng 10/2022, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 53 lượt người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 6.657 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,0%. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 10/2022, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 754 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 6 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 35.072 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,02%.

Tháng 10/2022, trên địa bàn tỉnh phát hiện 1 người nhiễm mới HIV, 1 người chuyển sang AIDS. Tính đến ngày 31/10/2022, lũy tích nội tỉnh số người nhiễm HIV là 469 người; số bệnh nhân AIDS là 407 người; số bệnh nhân tử vong là 138 người. Ngày 10/11/2022, Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, AIDS, tệ nạn xã hội và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc tỉnh (BCĐ 138 tỉnh) ban hành Kế hoạch số 223/KH-BCĐ về tổ chức Tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2022 từ ngày 10/11/2022 - 10/12/2022 với chủ đề “Chấm dứt dịch AIDS - Thanh niên sẵn sàng”. Mục tiêu của Tháng hành động nhằm huy động sự tham gia của các nhà lãnh đạo, nhà hoạch định chính sách, người cung cấp dịch vụ và toàn thể cộng đồng tham gia phòng, chống HIV/AIDS để tiếp tục tiến tới mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030; tăng cường các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV, xét nghiệm phát hiện và điều trị sớm HIV/AIDS, đảm bảo việc tham gia bảo hiểm y tế của người nhiễm HIV; giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV, tăng cường sự hỗ trợ của gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và trách nhiệm của người nhiễm HIV/AIDS với gia đình, xã hội.

Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Tính đến cuối tháng 10 năm 2022, toàn tỉnh đã xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm với 34 ca mắc, trong đó: 1 vụ ở thành phố Đồng Hới với 12 ca mắc đều là khách du lịch; 1 vụ ở xã Quảng Hòa (thị xã Ba Đồn) với 22 ca mắc, các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời, ngoài ra còn có 151 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.  

3. Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao

Trong tháng, các hoạt động văn hóa tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao. Sở Văn hóa và Thể thao đã chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị số 274/CT-BVHTTDL về việc tăng cường quản lý nhà nước đối với một số hoạt động văn hóa nghệ thuật, lễ hội, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; xây dựng chương trình phối hợp với Tỉnh đoàn Quảng Bình trong phát triển sự nghiệp văn hóa và thể thao; hoàn thiện xây dựng hồ sơ khoa học Lễ hội mừng cơm mới của người Bru-Vân Kiều ở xã Ngân Thủy để đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Ngày 14/11/2022, tại Đền tưởng niệm các Anh hùng Liệt sỹ Đường 20 -  Quyết Thắng (xã Tân Trạch, huyện Bố Trạch), UBND tỉnh đã tổ chức Lễ tưởng niệm 50 năm Ngày hy sinh các anh hùng liệt sỹ tại Hang tám thanh niên xung phong và Đường 20 - Quyết Thắng. Hang tám thanh niên xung phong đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng Di tích Quốc gia Đặc biệt, Đường 20 - Quyết Thắng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia. Lễ tưởng niệm được tổ chức nhằm tái hiện lịch sử, làm sống lại những ký ức về một thời oanh liệt, hào hùng của dân tộc; thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình đối với những người con ưu tú đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của đất nước; đồng thời là dịp để tuyên truyền, giáo dục về truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng, tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” và sự hy sinh cao cả của các bậc cha anh cho thế hệ trẻ hôm nay.

Thể thao phong trào trong tháng nổi bật với các giải thể thao chào mừng 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022) như giải bóng chuyền nam, nữ công chức, viên chức, người lao động ngành Giáo dục và Đào tạo năm 2022; giải cầu lông Khối thi đua các trường chuyên nghiệp. Qua các giải đấu, cán bộ, giáo viên có cơ hội giao lưu học tập, chia sẻ kinh nghiệm, thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa các đơn vị, góp phần xây dựng lối sống văn hóa, thể thao lành mạnh trong trường học. Đây cũng là dịp để đánh giá kết quả triển khai phong trào thể dục thể thao trong đội ngũ cán bộ, giáo viên các đơn vị, trường học, tạo động lực phát triển phong trào thể dục thể thao theo tinh thần cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”.

Thể thao thành tích cao trong 11 tháng năm 2022 đã đạt được những thành tựu nổi bật, lũy kế từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao giành được 133 huy chương các loại (48 HCV, 39 HCB và 46 HCĐ).

4. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng (từ 15/10/2022 - 14/11/2022), trên địa bàn tỉnh xảy ra 17 vụ tai nạn giao thông, tăng 11 vụ so với tháng trước, giảm 1 vụ so với cùng kỳ năm 2021; trong đó tai nạn giao thông đường bộ 17 vụ, tai nạn giao thông đường sắt và đường thủy không xảy ra. Số người chết do tai nạn giao thông 8 người, tăng 5 người so với tháng trước, bằng cùng kỳ năm 2021. Số người bị thương do tai nạn giao thông 10 người, tăng 4 người so với tháng trước, giảm 2 người so với cùng kỳ năm 2021.

Lũy kế 11 tháng năm 2022, toàn tỉnh đã xảy ra 107 vụ tai nạn giao thông, giảm 6 vụ so với cùng kỳ năm 2021, trong đó đường bộ 107 vụ, giảm 6 vụ so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 63 người, giảm 10 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 63 người, giảm 10 người so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 82 người, giảm 4 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 82 người, giảm 4 người so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2021.

Hình 9. Tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh

 

Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng trên địa bàn tỉnh xảy ra 4 vụ cháy, trong đó 1 vụ cháy xe ô tô ở huyện Tuyên Hóa ước giá trị thiệt hại 500 triệu đồng và 3 vụ cháy xảy ra ở huyện Bố Trạch bao gồm 1 vụ cháy xe ô tô ước thiệt hại 102 triệu đồng, 1 vụ cháy nhà kho chứa bình ắc quy ước thiệt hại 45 triệu đồng và 1 vụ cháy nhà ở kết hợp sản xuất kinh doanh chưa đánh giá được thiệt hại; so với tháng trước, số vụ cháy tăng 4 vụ, giá trị thiệt hại tăng 647 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021, số vụ cháy tăng 2 vụ, giá trị thiệt hại giảm 496 triệu đồng. Lũy kế 11 tháng năm 2022, toàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ cháy với giá trị thiệt hại tạm ước tính 5.635 triệu đồng (trong tháng 7 phát sinh 1 vụ cháy ô tô ở huyện Minh Hóa ước giá trị thiệt hại ban đầu là 1.700 triệu đồng, hiện được đánh giá lại còn 1.111 triệu đồng làm tổng giá trị thiệt hại giảm 589 triệu đồng) và 1,61 ha rừng. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ cháy giảm 3 vụ, giá trị thiệt hại tạm ước tăng 662,5 triệu đồng.

5. Tình hình môi trường và thiên tai

- Vi phạm môi trường

Trong tháng trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 14 vụ vi phạm môi trường, trong đó 11 vụ đổ rác thải không đúng nơi quy định, 3 vụ khai thác khoáng sản trái phép; các ngành chức năng đã xử lý 14 vụ, phạt tiền 9,75 triệu đồng; so với tháng trước số vụ vi phạm đã phát hiện tăng 8 vụ, số vụ đã xử lý tăng 8 vụ và số tiền phạt tăng 2,50 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021, số vụ vi phạm đã phát hiện tăng 12 vụ, số vụ đã xử lý tăng 12 vụ và số tiền phạt tăng 8,95 triệu đồng. Luỹ kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 69 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, số vụ vi phạm môi trường đã xử lý 62 vụ, phạt tiền 107,40 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước, số vụ vi phạm đã phát hiện tăng 10 vụ, số vụ đã xử lý vi phạm tăng 17 vụ và số tiền phạt tăng 59,60 triệu đồng.

- Tình hình thiên tai

Từ đầu tháng 11 đến nay, thời tiết tương đối thuận lợi, chỉ rải rác mưa nhẹ kèm không khí lạnh, nên không có thiên tai xảy ra. Lũy kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ thiên tai, ước tính tổng giá trị thiệt hại là 242.997 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước số vụ thiên tai giảm 07 vụ, giá trị thiệt hại ước tính tăng 199.987 triệu đồng./.

[Trở về]