THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2022 tỉnh Quảng Bình 

I. KINH TẾ

1. Nông nghiệp

a) Trồng trọt

* Sơ bộ kết quả sản xuất vụ Hè Thu năm 2022

Đến nay, các sản phẩm trồng trọt chủ yếu của vụ Hè Thu năm 2022 cơ bản đã thu hoạch xong. Sản xuất vụ Hè Thu năm nay trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi. Tuy thời tiết đầu Vụ nắng nóng kéo dài, nhưng nhờ có dự báo và chuẩn bị trước nên các địa phương đã chủ động triển khai tốt các giải pháp thủy lợi, xây dựng kế hoạch điều tiết, dự trữ, tưới tiêu nước hợp lý, bảo đảm nguồn nước phục vụ cho công tác gieo trồng. Các giống lúa năng suất cao, chống chịu hạn tốt, như HT1, DV108, QS447 tiếp tục được đưa vào sản xuất vụ Hè Thu. Tuy nhiên, do giá cả các loại vật tư, phân bón, giống, chi phí làm đất tăng cao nên nhiều hộ bỏ ruộng hoang, một số nơi chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác đem lại thu nhập cao hơn như rau, đậu các loại, cây ăn quả,... hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản; bên cạnh đó, một số diện tích đất trồng cây hàng năm bị thu hồi do các dự án của Nhà nước triển khai giải phóng mặt bằng, theo đó, diện tích gieo trồng giảm. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Hè Thu năm 2022 thực hiện 36.077,7 ha, giảm 1,7% so với vụ Hè Thu năm trước.

Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu vụ Hè Thu 2022 như sau:

- Cây lúa:

Diện tích lúa toàn tỉnh thực hiện 23.193,2 ha, giảm 1,7% so với vụ Hè Thu năm trước. Diện tích của các địa phương: Thành phố Đồng Hới 744,6 ha, giảm 8,3%; thị xã Ba Đồn 2.176,6 ha, tăng 1,5%; huyện Minh Hóa 449 ha, tăng 0,6%, huyện Tuyên Hóa 1.166,7 ha, tăng 3,9%; huyện Quảng Trạch 3.362 ha, giảm 1,1%; huyện Bố Trạch 2.208,5 ha, giảm 16,7%; huyện Quảng Ninh 3.705 ha, tăng 0,7%; huyện Lệ Thủy 9.380,8 ha, tăng 0,4% so với vụ Hè Thu năm trước.

Sơ bộ năng suất lúa bình quân chung toàn tỉnh đạt 40,99 tạ/ha, giảm 5,6% so với vụ Hè Thu năm trước. Năng suất lúa các địa phương: Thành phố Đồng Hới đạt 56,45 tạ/ha, thị xã Ba Đồn đạt 57,30 tạ/ha, huyện Minh Hóa đạt 50,30 tạ/ha, huyện Tuyên Hóa đạt 52 tạ/ha, huyện Quảng Trạch đạt 57,40 tạ/ha, huyện Bố Trạch đạt 50 tạ/ha, huyện Quảng Ninh đạt 47,47 tạ/ha, huyện Lệ Thủy đạt 23,60 tạ/ha.

Sơ bộ sản lượng lúa toàn tỉnh vụ Hè Thu đạt 95.068,2 tấn, giảm 7,2% so với vụ Hè Thu năm trước.

Hình 1. Diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm vụ Hè Thu 2022

- Cây trồng khác:

Diện tích: Cây ngô thực hiện 612,8 ha, giảm 3,8%; khoai lang 448,5 ha, giảm 2,5%; sắn 6.326,4 ha, giảm 3,8%; lạc 512,4 ha, giảm 5,4%; rau các loại 1.858,1 ha, tăng 1,2%; đậu các loại 996,4 ha, tăng 4,5% so với vụ Hè Thu năm trước.

Năng suất: Cây ngô đạt 39,49 tạ/ha, tăng 3,9%; khoai lang đạt 60,20 tạ/ha, tăng 3,2%; sắn đạt 193,1 tạ/ha, tăng 5,5%; lạc đạt 18,74 tạ/ha, tăng 7,2%; rau các loại đạt 93,09 tạ/ha, tăng 0,7%; đậu các loại đạt 9,28 tạ/ha, giảm 3,4% so với vụ Hè Thu năm trước.

Sản lượng: Cây ngô 2.420 tấn, giảm 0,1%; khoai lang 2.700 tấn, tăng 0,6%; sắn 122.150 tấn, tăng 1,4%; lạc 960 tấn, tăng 1,5%; rau các loại 17.297,5 tấn, tăng 1,9%; đậu các loại 924,7 tấn, tăng 0,9% so với vụ Hè Thu năm trước.

Sơ bộ sản lượng lương thực vụ Hè Thu 2022 đạt 97.492,2 tấn, giảm 7,0% so với vụ Hè Thu năm trước. Trong đó: Sản lượng lúa đạt 95.068,2 tấn, giảm 7,2%; ngô đạt 2.420 tấn, giảm 0,1%; kê đạt 4,0 tấn, tăng 12,6% so với vụ Hè Thu năm trước.

Do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới từ ngày 15 - 18/10/2022, trên địa bàn tỉnh có mưa to, gây ngập lụt ở nhiều nơi, nhất là ở hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy làm thiệt hại 35,7 ha rau, màu và 4,2 ha cây trồng hàng năm khác [1].

* Ước tính kết quả sản xuất vụ Mùa

Ước tính diện tích gieo trồng lúa vụ Mùa năm 2022 toàn tỉnh thực hiện 377 ha, giảm 16,8% so với vụ Mùa năm trước. Nguyên nhân diện tích gieo trồng lúa vụ Mùa giảm mạnh do một số diện tích bà con dân tộc chuyển đổi qua trồng sắn (huyện Bố Trạch) và một số diện tích các năm trước gieo trồng trên diện tích rừng phòng hộ, năm nay Nhà nước cấm nên không thực hiện gieo trồng (huyện Quảng Ninh). Diện tích lúa vụ Mùa ở các địa phương: Huyện Minh Hóa 135 ha; huyện Bố Trạch 242 ha. Hiện nay, ở huyện Bố Trạch, bà con nông dân đang tập trung khắc phục hậu quả do đợt mưa lớn cuối tháng 9 làm nhiều diện tích lúa vụ Mùa bị sạt đổ. Ước tính năng suất lúa vụ Mùa năm nay đạt 10,82 tạ/ha, tăng 10,9%; sản lượng lúa vụ Mùa đạt 422,4 tấn, giảm 7,6% so với vụ Mùa năm trước.

* Sản xuất vụ Đông Xuân 2022 - 2023

Hiện nay, các địa phương đang chỉ đạo triển khai sản xuất vụ Đông Xuân 2022 - 2023. Thời tiết có mưa là điều kiện thuận lợi cho bà con nông dân chuẩn bị làm đất phục vụ cho gieo trồng các loại cây rau màu vụ Đông Xuân trong thời gian tới.

b) Chăn nuôi

Sản xuất chăn nuôi tháng 10 và 10 tháng năm 2022 ổn định và tiếp tục phát triển khá so với cùng kỳ năm trước cả về số lượng đàn cũng như sản lượng thịt hơi xuất chuồng. Hiện tại, người chăn nuôi đẩy mạnh xuất chuồng để bắt đầu tập trung tái đàn, nhằm tạo nguồn cung ứng thịt ra thị trường trong dịp tết Nguyên đán sắp tới. Tuy nhiên, giá các yếu tố đầu vào, thức ăn chăn nuôi còn ở mức cao nên ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi. Dịch bệnh được kiểm soát, công tác tiêm phòng thú y, vệ sinh môi trường được chú trọng tạo thuận lợi cho ngành chăn nuôi phát triển.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 10 đạt 5.972 tấn, tăng 6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 169 tấn, tăng 9,0%; thịt bò 799 tấn, tăng 11,8%; thịt lợn 2.744 tấn, tăng 2,6%; thịt gia cầm 2.260 tấn, tăng 8,1% (trong đó: thịt gà 2.062 tấn, tăng 16,9%) so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng 10 tháng đạt 67.738,3 tấn, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 1.613 tấn, tăng 1,1%; thịt bò 8.512 tấn, tăng 8,4%; thịt lợn 37.401,0 tấn, tăng 10,8%; thịt gia cầm 20.212,3 tấn, tăng 6,1% (trong đó: thịt gà 16.455 tấn, tăng 7,2%) so với cùng kỳ năm trước.

Hình 2. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng

Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm:

- Dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh dịch tả lợn châu Phi cơ bản đã được khống chế, chỉ còn 1 xã (Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn) chưa qua 21 ngày. Lũy kế từ ngày 01/01/2022 đến ngày 18/10/2022, dịch tả lợn châu Phi xảy ra tại 182 hộ/55 thôn/24 xã/5 huyện, đã tiêu hủy 1.717 con lợn với trọng lượng 114.401 kg.

- Bệnh lở mồm long móng, cúm gia cầm, viêm da nổi cục, tai xanh trên đàn gia súc, gia cầm không xảy ra [2].

2. Lâm nghiệp

Sang tháng 10, thời tiết bắt đầu chuyển mùa mưa, trên địa bàn tỉnh có mưa trên diện rộng rất thuận lợi cho việc trồng rừng. Các địa phương, đơn vị và hộ dân đẩy nhanh tiến độ trồng rừng theo kế hoạch đề ra. Nhìn chung, sản xuất lâm nghiệp 10 tháng phát triển ổn định, các địa phương tập trung triển khai tốt công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng, chăm sóc và khai thác gỗ, cùng với đó tăng cường quản lý chất lượng giống cây trồng.

Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 10 thực hiện 1.517 ha, tăng 3,9%; 10 tháng thực hiện 5.067 ha, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng gỗ khai thác tháng 10 đạt 94.767 m3, tăng 4,4%; 10 tháng đạt 509.450 m3, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác tăng do một số diện tích rừng trồng đã đến kỳ khai thác, năng suất, trữ lượng gỗ rừng trồng ngày càng nhiều; nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu tăng cao phục vụ sản xuất, xây dựng, xuất khẩu,…

Sản lượng củi khai thác trong tháng 10 ước tính đạt 16.600 ste, tăng 4,4%; 10 tháng đạt 324.595 ste, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước.

Công tác bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm. Triển khai kịp thời công tác tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân vùng có rừng; tổ chức tập huấn công tác phòng, chống cháy rừng và cứu nạn, cứu hộ cho người dân trong mùa mưa lũ.

3. Thủy sản

Sang tháng 10, bước vào giai đoạn chuyển mùa, không thuận lợi cho nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, sản lượng thuỷ sản giảm mạnh so với tháng trước. Ước tính sản lượng thuỷ sản tháng 10 đạt 6.712 tấn, giảm 27,6% so với tháng trước và tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Sản lượng thủy sản

Ước tính sản lượng thuỷ sản 10 tháng đạt 80.439 tấn, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 65.948 tấn, tăng 3,1%; tôm đạt 5.230 tấn, tăng 2,2%; thuỷ sản khác đạt 9.261 tấn, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước.

a) Khai thác

Để chủ động ứng phó với diễn biến của mưa, bão, lũ, các địa phương đã giám sát chặt chẽ, không cho các tàu thuyền ra khơi trong thời gian cấm biển; hướng dẫn, sắp xếp tàu thuyền tại nơi neo đậu, tránh trú bảo đảm an toàn theo đúng quy định. Những ngày đầu tháng 10, thời tiết thuận lợi, ngư dân bám biển vươn khơi, mở rộng ngư trường, nhiều chủ tàu đã chủ động cải hoán, nâng cấp tàu thuyền, ngư lưới cụ chuyển đổi nghề đánh bắt, nhờ đó sản lượng đánh bắt đạt khá so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng khai thác tháng 10 đạt 5.451 tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 4.478 tấn, tăng 8,6%; tôm đạt 179 tấn, tăng 2,3%; thủy sản khác đạt 794 tấn, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng khai thác 10 tháng đạt 69.916 tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 59.224 tấn, tăng 3,2%; tôm đạt 1.632 tấn, tăng 5%; thủy sản khác đạt 9.060 tấn, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khai thác biển ước 66.340 tấn (chiếm tỷ trọng 94,9% trong tổng sản lượng khai thác), tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

b) Nuôi trồng

Hiện nay, nuôi trồng thủy sản với các hình thức từ ao hồ nhỏ đến hồ đập thuỷ lợi phát triển khá ổn định. Sản lượng thủy sản nuôi trồng thu hoạch tháng 10 ước tính đạt 1.261 tấn, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước (do trong tháng 9 các hộ nuôi đã tập trung thu hoạch các loại thuỷ sản nhằm hạn chế thiệt hại do mưa lũ gây ra). Trong đó: Cá đạt 931 tấn, giảm 1%; tôm đạt 306 tấn, tăng 0,3%; thủy sản khác đạt 24 tấn, giảm 23,8% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thủy sản nuôi trồng thu hoạch 10 tháng đạt 10.523 tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 6.724 tấn, tăng 2,6%; tôm đạt 3.598 tấn, tăng 1,1%; thủy sản khác đạt 201 tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước.

Do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới từ ngày 15 - 18/10/2022, trên địa bàn huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh đã có mưa to trên diện rộng, làm thiệt hại 3,64 ha nuôi cá và tôm (1,64 ha nuôi cá và 2 ha nuôi tôm); giá trị thiệt hại ước tính 331 triệu đồng.

4. Công nghiệp

Sản xuất ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng 10 tiếp tục duy trì tăng trưởng nhờ một số doanh nghiệp đã hoạt động trở lại sau thời gian ngừng sản xuất để tiến hành bảo trì, sửa chữa máy móc (Công ty Cổ phần Dược phẩm Quảng Bình, Nhà máy xi măng Vạn Ninh); sắn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tinh bột cũng đang trong vụ thu hoạch nên các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của bão gây mưa lớn nên một số ngành như khai thác khoáng sản, chế biến hải sản và một số ngành sản xuất sản phẩm khác giảm so với tháng trước. Bên cạnh đó, ảnh hưởng từ xung đột Nga - Ukraine và tình hình lạm phát ở Mỹ và châu Âu khiến nhiều hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn, đơn hàng sụt giảm làm cho nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm sản lượng sản xuất, do đó chỉ số sản xuất công nghiệp đang có mức tăng chậm lại.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 10 năm 2022 tăng 3,3% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 1,5%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,4%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 86,0%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 10 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 15,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 15,9%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 91,7%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 4. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp

Chỉ số sản xuất 10 tháng năm 2022 của một số ngành cấp 2 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất và phân phối điện tăng 91,7%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 62,4%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn ghế) tăng 48,6%; sản xuất trang phục tăng 26,4%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 24,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 21,8%; khai thác quặng kim loại tăng 16,2%; khai khoáng khác tăng 15,9%. Một số ngành cấp 2 tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 4,3%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3,1%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 1,4%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 57,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 20,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 9,0%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 3,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 9,4% so với cùng kỳ năm trước.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong 10 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước: Quặng titan đạt 59,2 nghìn tấn, tăng 16,2%; đá xây dựng đạt 2,8 triệu m3, tăng 5,2%; cao lanh đạt 67,8 nghìn tấn, tăng 38,9%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 21,1 nghìn tấn, tăng 30,4%; tinh bột sắn đạt 6,5 nghìn tấn, giảm 44,6%; bia đóng chai đạt 1,7 triệu lít, giảm 25,7%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 4,9 triệu cái, tăng 25,9%; áo sơ mi đạt 11,2 triệu cái, tăng 39,4%; dăm gỗ đạt 413,8 nghìn tấn, tăng 69,4%; ván ép từ gỗ đạt 79,5 nghìn m3, tăng 1,2%; kính cường lực đạt 2,2 nghìn tấn, tăng 42,5%; clinker thành phẩm đạt 2,6 triệu tấn, giảm 10,6%; xi măng đạt 1,3 triệu tấn, giảm 14,4%; điện mặt trời đạt 87,4 triệu kwh, tăng 14,5%; điện thương phẩm đạt 929 triệu kwh, tăng 7,6%; điện gió đạt 369,0 triệu kwh.

5. Vốn đầu tư

Với trọng tâm đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công trong những tháng cuối năm 2022, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt, tập trung tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch, xử lý các điểm nghẽn trong thủ tục đầu tư, xây dựng cơ bản và công tác đền bù giải phóng mặt bằng, đặc biệt là việc đôn đốc triển khai các dự án đầu tư lớn, trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Trong tháng 10, các đơn vị tiếp tục thực hiện thi công các công trình chuyển tiếp, đồng thời triển khai một số dự án, công trình mới của kế hoạch 2022. Tuy nhiên, thời tiết trong tháng 10 không thuận lợi đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai dự án và tiến độ thi công các công trình.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 10 năm 2022 ước tính đạt 358,5 tỷ đồng, giảm 2,8% so với tháng trước và tăng 14,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 242,4 tỷ đồng, tăng 4,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 68,2 tỷ đồng, tăng 29,2%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 47,9 tỷ đồng, tăng 62,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 10 tháng năm 2022, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý đạt 3.485,3 tỷ đồng, tăng 31,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 2.341,0 tỷ đồng, tăng 21,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 677,3 tỷ đồng, tăng 56,2%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 467,0 tỷ đồng, tăng 60,5% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư thực hiện 10 tháng năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do năm 2021 dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và kéo dài, giá cả nguyên vật liệu tăng cao, việc huy động nhân công, vật tư, thiết bị để đẩy nhanh tiến độ thi công một số công trình gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, năm 2022 tỉnh đã huy động và bố trí khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn nhằm khôi phục và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội sau dịch.

Bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn một số công trình/dự án tiến độ thực hiện đạt thấp do vướng mắc về công tác giải phóng mặt bằng; giá nguyên vật liệu xây dựng tăng cao làm cho nhiều công trình phải điều chỉnh dự toán, giãn tiến độ thi công dẫn tới chậm giải ngân nguồn vốn đầu tư công; thủ tục đầu tư còn kéo dài thời gian, các dự án khởi công mới được bố trí vốn đầu năm phải mất nhiều thời gian triển khai các thủ tục, do đó tiến độ giải ngân vốn của những dự án khởi công mới chỉ được đẩy mạnh vào những tháng cuối năm. Trong thời gian tới, các cấp, các ngành cần chỉ đạo quyết liệt các đơn vị liên quan tập trung mọi nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ thi công nhằm đảm bảo hoàn thành các công trình xây dựng theo kế hoạch.

6. Thương mại, dịch vụ

a) Tổng mức bán lẻ hàng hoá

Tình hình lưu thông hàng hóa tháng 10/2022 trên địa bàn tỉnh ổn định, hoạt động kết nối cung cầu tiếp tục được mở rộng trên nhiều địa bàn và đa dạng chủng loại hàng hóa. Tuy nhiên, giá xăng dầu đã giảm mạnh song giá cả hàng hóa vẫn chưa hạ nhiệt, người tiêu dùng tiếp tục đối diện với áp lực chi tiêu, hầu hết mức tiêu thụ các mặt hàng giảm so với các tháng trước. Bên cạnh đó, tháng 10 bước vào mùa mưa bão, nhu cầu đi lại, tham quan du lịch của người dân giảm đã tác động đến tốc độ tăng trưởng của tổng mức bán lẻ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 10/2022 ước tính đạt 4.062,2 tỷ đồng, giảm 0,9% so với tháng trước và tăng 20,2% so với cùng kỳ. Ngoài 3 nhóm: vật phẩm văn hoá, giáo dục; phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) và nhóm doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng nhẹ so với tháng trước thì tất cả các nhóm còn lại đều giảm. Trong đó, nhóm lương thực, thực phẩm giảm 0,6%; nhóm hàng may mặc giảm 1,5%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình giảm 1,0%; nhóm vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 0,9%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng giảm 1,2%; nhóm ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) giảm 0,5%; nhóm phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 0,2%; nhóm xăng, dầu các loại giảm 1,2%; nhóm nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) giảm 1,1%; nhóm đá quý, kim loại quý giảm 1,7%; nhóm hàng hoá khác giảm 0,5%; nhóm doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 0,3% so với tháng trước.

Hình 5. Tổng mức bán lẻ hàng hóa

Tính chung 10 tháng năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 39.962,9 tỷ đồng, tăng 13,9% so với cùng kỳ. Trong 12 nhóm ngành của tổng mức bán lẻ hàng hóa có 3 nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn, có tốc độ tăng cao, đóng góp lớn trong tăng chung của tổng mức bán lẻ hàng hóa, cụ thể: nhóm xăng dầu các loại tăng 38,1%, đóng góp 4,2 điểm phần trăm; nhóm lương thực, thực phẩm tăng 9,0% đóng góp 2,9 điểm phần trăm và nhóm gỗ và nhóm vật liệu xây dựng tăng 12,1%, đóng góp 1,9 điểm phần trăm trong mức tăng 13,9% của tổng mức bán lẻ hàng hoá.

b) Dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch  

Tháng 10, hết mùa du lịch cao điểm của Quảng Bình nên dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành trầm lắng hơn những tháng trước. Thời tiết tháng 10 không thuận lợi, ảnh hưởng đến hoạt động du lịch, nhất là các Tour du lịch lữ hành: mực nước trong các hang động cao, đường lên các điểm du lịch nhiều nơi bị ngập; một số điểm tham quan cũng bắt đầu dừng khai thác theo chu kỳ (như các tour tại hang Sơn Đoòng). Vì vậy doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành tháng 10 giảm mạnh so với tháng trước. Tuy nhiên, so với cùng kỳ, doanh thu các ngành này tăng rất cao do cùng thời điểm này năm 2021, dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 bùng phát trên địa bàn tỉnh.

- Dịch vụ lưu trú:

Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 10/2022 ước tính đạt 39,5 tỷ đồng, giảm 19,7% so với tháng trước và gấp 31,1 lần so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2022 đạt 377,1 tỷ đồng, gấp 4,4 lần so với cùng kỳ.

Hình 6. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống

Số lượt khách lưu trú tháng 10/2022 ước tính đạt 116.200 lượt khách, giảm 20,3% so với tháng trước, gấp 28,2 lần so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2022 đạt 1.110.355 lượt khách, gấp 4,6 lần so với cùng kỳ.

Số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 10/2022 ước tính đạt 3.200 lượt khách, giảm 38,7% so với tháng trước, gấp 26,7 lần so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2022 đạt 24.281 lượt khách, gấp 4,1 lần so với cùng kỳ.

Ngày khách tháng 10/2022 ước tính đạt 124.050 ngày khách, giảm 20,7% so với tháng trước, gấp 29,6 lần so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2022 đạt 1.167.287 ngày khách, gấp 4,3 lần so với cùng kỳ.

- Du lịch lữ hành:

Doanh thu hoạt động lữ hành tháng 10/2022 ước tính đạt 32,1 tỷ đồng, giảm 21,9% so với tháng trước, gấp 91,7 lần so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2022 đạt 294,2 tỷ đồng, gấp 4,6 lần so với cùng kỳ.

Hình 7. Doanh thu dịch vụ du lịch, lữ hành

Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 10/2022 ước tính đạt 50.800 lượt khách, giảm 21,3% so với tháng trước, gấp 169,3 lần so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2022 đạt 438.176 lượt khách, gấp 4,3 lần so với cùng kỳ.

Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 10/2022 đạt 2.600 lượt khách, giảm 42,9% so với tháng trước; 10 tháng năm 2022 đạt 21.340 lượt khách, gấp 5,5 lần so với cùng kỳ.

- Dịch vụ ăn uống:

Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 10/2022 ước tính đạt 343,7 tỷ đồng, giảm 11,5% so với tháng trước và tăng 39,2% so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2022 đạt 3.483,3 tỷ đồng, tăng 26,6% so với cùng kỳ.

c) Dịch vụ khác

Tháng 10, thời tiết bắt đầu chuyển mùa mưa bão nên doanh thu hoạt động dịch vụ khác giảm so với tháng trước. Trong đó tập trung giảm ở 3 nhóm ngành dịch vụ, đó là: dịch vụ kinh doanh bất động sản; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ và dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí. Các nhóm dịch vụ còn lại tăng nhẹ, như: dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng do học phí tăng; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội; dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình; dịch vụ phục vụ cá nhân khác.

Ước tính doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng 10/2022 đạt 156,1 tỷ đồng, giảm 0,3% so với tháng trước và tăng 29,0% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 1.517,2 tỷ đồng, tăng 15,8% so với cùng kỳ. Trong đó, một số nhóm dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn và tăng cao: nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 24,7%; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 13,3%; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 9,5%.

d) Hoạt động vận tải

Hoạt động vận tải trong 10 tháng năm 2022 tăng trưởng tốt sau thời gian chịu nhiều ảnh hưởng của dịch COVID-19 nhờ các ngành kinh tế phục hồi trở lại, nhất là ngành du lịch. Mặt khác, những tháng gần đây giá xăng, dầu giảm đáng kể cũng đã giảm bớt khó khăn cho ngành vận tải. Tuy nhiên từ cuối tháng 9 đến nay, thời tiết chuyển sang mùa mưa nên hoạt động vận tải bị ảnh hưởng, tốc độ tăng trưởng chậm lại so với các tháng trước.

Tổng doanh thu vận tải và doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 10/2022 ước tính đạt 436,7 tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 27,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2022 ước tính đạt 3.891,6 tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách 10 tháng đạt 662,6 tỷ đồng, tăng 20,9%; doanh thu vận tải hàng hoá đạt 2.957,7 tỷ đồng, tăng 12,9%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 271,3 tỷ đồng, tăng 1,2% so với cùng kỳ.

Hình 8. Doanh thu hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải

Vận tải hành khách: Tháng 10/2022, thời tiết mưa nhiều, một số tuyến đường bị ngập ảnh hưởng đến lưu thông, mặt khác nhu cầu đi lại của người dân trong tỉnh cũng như khách du lịch đến Quảng Bình giảm làm cho doanh thu và sản lượng vận tải tháng 10 giảm so với tháng 9/2022, tuy nhiên vẫn tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước.

Số lượt hành khách vận chuyển tháng 10/2022 ước tính đạt 2,8 triệu hành khách, giảm 3,4% so với tháng trước và tăng 30,3% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển tháng 10/2022 ước tính đạt 119,5 triệu hành khách.km, giảm 1,9% so với tháng trước và tăng 22,2% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng, số lượt hành khách vận chuyển đạt 25,7 triệu hành khách, tăng 18,3%; số lượt hành khách luân chuyển đạt 1.175,8 triệu hành khách.km, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước.

Vận tải hàng hoá: Hoạt động vận tải hàng hóa trong tháng 10 năm 2022 mặc dù bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết nhưng vẫn tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ổn định, đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa trên thị trường, doanh thu vận tải trong tháng 10 tăng nhẹ so với tháng trước do một số công trình, dự án đã bước sang giai đoạn hoàn thiện, nhu cầu về vật liệu xây dựng giảm dần.

Ước tính tháng 10/2022, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 2,8 triệu tấn, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 16,1% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 183,9 triệu tấn.km, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 2,0% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 24,9 triệu tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 1.661,2 triệu tấn.km, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

đ) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số Đô la Mỹ

* Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Quảng Bình tháng 10 giảm 1,35% so với tháng trước, tăng 5,82% so với kỳ gốc 2019, tăng 0,64% so cùng kỳ năm trước và tăng 0,29% so tháng 12 năm trước. CPI bình quân 10 tháng 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,58% (trong đó: nhóm hàng hóa tăng 3,28%; nhóm dịch vụ tăng 1,24%).

So với tháng trước, CPI tháng 10 năm 2022 giảm 1,35%, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 05 nhóm giảm, 01 nhóm tăng và 05 nhóm không đổi so với tháng trước, cụ thể như sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,42%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,53%; nhóm giao thông giảm 1,94%; nhóm giáo dục giảm 15,07%, nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,01%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%, các nhóm: Nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm hàng hoá và dịch vụ khác có chỉ số không đổi so với tháng trước.

Nguyên nhân làm giảm CPI tháng 10 năm 2022 so với tháng trước: Liên Bộ Công Thương - Tài chính ra quyết định điều chỉnh giá xăng dầu giảm vào ngày 03/10/2022, sau đó điều chỉnh tăng vào 11/10/2022 và ngày 21/10/2022. Tuy nhiên, giá bình quân xăng dầu tháng 10 giảm so với tháng 9/2022, do đó, nhóm nhiên liệu giảm 5,84% đã tác động làm cho chỉ số giá nhóm giao thông giảm 1,94%; giá gas được điều chỉnh giảm 3,49% so với tháng 9/2022; giá thịt lợn giảm 3,94% so với tháng trước do lượng xuất chuồng tăng, nguồn cung dồi dào làm giá giảm; giá điện sinh hoạt giảm 1,05% và giá nước sinh hoạt giảm 2,14% do nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm.

* Chỉ số giá vàng 99,99%

Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước, bình quân tháng 10/2022 giá vàng tăng 1,26% so với tháng trước, giá vàng dao động quanh mức 5,16 triệu đồng/chỉ, tăng 33,68% so với kỳ gốc 2019, tăng 1,41% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,70% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 10 tháng chỉ số giá vàng tăng 1,57% so với cùng kỳ.

* Chỉ số giá đô la Mỹ (USD)

Đô la Mỹ tháng 10 có giá bình quân 23.842 đồng/USD, tăng 2,25% so với tháng trước, tăng 3,22% so với kỳ gốc 2019, tăng 5,20% so với cùng kỳ năm trước và tăng 5,12% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 10 tháng chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,57% so với cùng kỳ.

7. Thu ngân sách nhà nước, tín dụng

a) Thu ngân sách nhà nước

Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt kết quả tích cực, 10 tháng thu ngân sách đã vượt kế hoạch năm 2022 và tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Tổng thu ngân sách trên địa bàn 10 tháng năm 2022 ước tính thực hiện 6.929,4 tỷ đồng, đạt 115,5% so với dự toán địa phương, tăng 31,2% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa thực hiện 6.757,4 tỷ đồng [3], bằng 120,7% dự toán địa phương, bằng 141,3% dự toán trung ương, tăng 45,6% so với cùng kỳ (Nếu trừ thu tiền sử dụng đất, ước thu ngân sách 10 tháng đạt 2.328,6 tỷ đồng, đạt 90,2% dự toán trung ương và đạt 87,7% dự toán tỉnh giao, bằng 111,2% so với cùng kỳ); thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 172 tỷ đồng, đạt 43% dự toán địa phương, bằng 26,9% so với cùng kỳ.

So với dự toán năm: có 10/15 khoản thu đạt tiến độ (83,3%) dự toán cả năm, đó là: thu từ doanh nghiệp Nhà nước Trung ương; thuế thu nhập cá nhân; thu phí, lệ phí; thu xổ số kiến thiết; thu tiền thuê đất; thu tiền sử dụng đất; thu tiền sử dụng đất phi nông nghiệp; thu cấp quyền khai thác khoáng sản; thu khác ngân sách và thu hoa lợi công sản. Còn lại 5 khoản thu chưa đạt tiến độ của năm.

So với cùng kỳ năm trước: có 10/15 khoản có tăng trưởng so với cùng kỳ, đó là: thu từ DN đầu tư nước ngoài; thuế thu nhập cá nhân; thu lệ phí trước bạ; thu tiền sử dụng đất phi nông nghiệp; thu tiền thuê đất; thu tiền sử dụng đất; thu xổ số kiến thiết; thu cấp quyền khai thác khoáng sản; thu khác ngân sách và thu hoa lợi công sản. Còn lại 5 khoản thu giảm so với cùng kỳ. 

b) Tín dụng

- Hoạt động huy động vốn:

Đến 30/9/2022, tổng nguồn vốn huy động đạt 54.020 tỷ đồng [4], tăng 1,9% so với đầu năm. Ước tính đến 31/10/2022, tổng nguồn vốn huy động đạt 53.897 tỷ đồng, tăng 1,7% so với đầu năm.

- Hoạt động tín dụng:

Đến 30/9/2022, tổng dư nợ đạt 76.865 tỷ đồng, tăng 11,1% so với đầu năm. Dự ước đến 31/10/2022, dư nợ đạt 77.100 tỷ đồng, tăng 11,5% so với đầu năm.

- Dư nợ các chương trình tín dụng:

Cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP: dư nợ nội bảng 51,8 tỷ đồng, đã chuyển hạch toán ngoại bảng 797,7 tỷ đồng.

Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn: 158.154 khách hàng, dư nợ 35.535 tỷ đồng, chiếm 46,2% tổng dư nợ, tăng 13,1% so với đầu năm.

Cho vay phục vụ Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới: 107.792 khách hàng, dư nợ 16.253 tỷ đồng, chiếm 21,3% tổng dư nợ, giảm 4,1% so với đầu năm.

Cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách: Ngân hàng Chính sách xã hội đang triển khai 24 chương trình cho vay, dư nợ cho vay 4.265 tỷ đồng, tăng 15,5% so với đầu năm.  

II. XÃ HỘI

1. Y tế

Hiện nay, dịch bệnh sốt xuất huyết vẫn đang diễn biến phức tạp, nhất là ở các địa bàn huyện Lệ Thủy, Bố Trạch, Quảng Ninh và thành phố Đồng Hới. Trong tháng 9/2022, số ca mắc sốt xuất huyết tập trung nhiều nhất ở 2 huyện Lệ Thủy (553 ca) và huyện Bố Trạch (388 ca). Các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động vệ sinh môi trường nhằm loại bỏ các ổ chứa loăng quăng; triển khai các hoạt động thiết thực truyền thông phòng, chống sốt xuất huyết nhằm nâng cao ý thức người dân chủ động cách phòng, chống dịch bệnh; tiến hành phun hóa chất xử lý môi trường ở những vùng nguy cơ cao, đặc biệt tại những nơi đang có ca sốt xuất huyết lưu hành, nhằm cắt đứt chuỗi lây nhiễm. Hiện tại, ngành Y tế đang chủ động triển khai nhiều giải pháp nhằm hạn chế các loại dịch bệnh có thể xảy ra sau mưa lũ, bảo vệ sức khỏe người dân.

Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, trong tháng 9/2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 2.141 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 564 trường hợp cúm; 119 trường hợp tiêu chảy; 2 trường hợp viêm gan virut khác; 4 trường hợp thủy đậu; 2 trường hợp quai bị; 1 trường hợp lỵ trực trùng; 1 trường hợp sốt rét; 6 trường hợp tay - chân - miệng; 2 trường hợp lao phổi. Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 30/9/2022, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 3.944 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 3.688 trường hợp cúm; 1.373 trường hợp tiêu chảy; 18 trường hợp viêm gan virut B; 1 trường hợp viêm gan virut C; 30 trường hợp viêm gan vi rút khác; 84 trường hợp thủy đậu; 14 trường hợp quai bị; 16 trường hợp lỵ trực trùng; 12 trường hợp lỵ amip; 6 trường hợp sốt rét; 56 trường hợp tay - chân - miệng; 1 trường hợp viêm não virut khác; 3 trường hợp bệnh do virut Adeno; 11 trường hợp lao phổi. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời, ngoài ra có 3 trường hợp bệnh dại đã tử vong.

Công tác phòng, chống dịch COVID-19 được theo dõi sát sao; tiếp tục đẩy nhanh tiến độ tiêm vắc xin phòng dịch COVID-19. Sở Y tế bám sát tình hình dịch bệnh, kịp thời tham mưu với Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo phòng, chống COVID-19 của tỉnh, UBND tỉnh, Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 thực hiện các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Y tế về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, đảm bảo chủ động, kịp thời, kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh trên địa bàn; tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho các đơn vị, không để xảy ra tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư và nhân lực y tế cho công tác khám chữa bệnh và phòng, chống dịch.

Theo báo cáo của Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, tính đến thời điểm 6h00 ngày 24/10/2022, toàn tỉnh có 1.997.799 liều vắc xin đã được tiêm, trong đó 664.077 người đã tiêm 2 mũi; 177.939 người đã tiêm mũi bổ sung; 361.688 người đã tiêm mũi nhắc lại 1 (mũi 3); 93.317 người đã tiêm mũi nhắc lại 2 (mũi 4); tổng số ca dương tính là 131.896 ca (trong đó 131.740 ca đã khỏi bệnh, 74 ca đang nhiễm và 82 ca tử vong).

Tình hình sốt rét trong tháng 9/2022: tổng số lượt người điều trị sốt rét là 67 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 1 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 3.439 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,03%. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 9/2022, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 701 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 6 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 28.415 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,02%.

Tháng 9/2022, trên địa bàn tỉnh phát hiện 1 người nhiễm mới HIV. Tính đến ngày 30/9/2022, lũy tích nội tỉnh số người nhiễm HIV là 468 người; số bệnh nhân AIDS là 406 người; số bệnh nhân tử vong là 138 người. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, khám, điều trị bệnh nhân HIV/AIDS, hướng dẫn các hành vi an toàn dự phòng lây nhiễm HIV, nhằm hạn chế sự lây nhiễm HIV trong nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng.

Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm. Qua thanh tra, kiểm tra đã kịp thời phát hiện, nhắc nhở, chấn chỉnh cũng như xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Trong quá trình thanh tra, kiểm tra các đoàn đã kết hợp tuyên truyền, giáo dục các quy định của pháp luật, các kiến thức về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm cho các chủ cơ sở và người trực tiếp tham gia sản xuất, chế biến thực phẩm thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm. Trong 9 tháng năm 2022, tỷ lệ cơ sở được kiểm tra đạt yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm chiếm 85,3%.

Công tác xử lý vi phạm hành chính thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra ở các tuyến được chú trọng, đẩy mạnh hơn trước. Ở tuyến tỉnh, trong 9 tháng năm 2022 đã phát hiện 36 cơ sở vi phạm về an toàn thực phẩm, trong đó đã xử phạt 11 cơ sở (chiếm 30,6%) với số tiền 33,95 triệu đồng. Việc xử lý vi phạm ở tuyến huyện, trong 9 tháng năm 2022 đã xử lý 21/817 cơ sở (chiếm 2,6%) với số tiền phạt 61,5 triệu đồng. Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm phục vụ các chuyến thăm và làm việc của các đoàn Trung ương, đoàn quốc tế vào làm việc tại Quảng Bình, các sự kiện lớn và đột xuất trong tỉnh đã được triển khai kịp thời, có hiệu quả, không để xảy ra các sự cố về an toàn thực phẩm. Tính đến cuối tháng 9 năm 2022, toàn tỉnh đã xảy ra 2 vụ ngộ độc thực phẩm với 34 ca mắc, trong đó: 1 vụ ở thành phố Đồng Hới với 12 ca mắc đều là khách du lịch; 1 vụ ở xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn với 22 ca mắc, các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời, ngoài ra còn có 144 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.  

2. Giáo dục, đào tạo

a) Giáo dục

Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ngành Giáo dục năm học 2022 - 2023, ngày 01/10/2022, Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình đã phối hợp với các nhà xuất bản, tổ chức Hội thảo giới thiệu tài liệu cho trẻ mẫu giáo làm quen với tiếng Anh sử dụng trong cơ sở giáo dục mầm non. Vì đây là “giai đoạn vàng” để trẻ có khả năng bắt chước và học hỏi rất nhanh, khả năng ghi nhớ chiếm đến 90% trong suốt cuộc đời. Vì vậy, thực sự cần thiết để cho trẻ em mẫu giáo được làm quen với ngoại ngữ, làm quen với Tiếng Anh, chuẩn bị tốt cho việc học Tiếng Anh ở bậc tiểu học.

Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Kỳ thi nghề phổ thông năm học 2022 - 2023 vào ngày 12/10/2022, có 10.597 học sinh lớp 12 trên địa bàn toàn tỉnh đăng ký dự thi với 5 nghề gồm: Điện dân dụng; Tin học Văn phòng; Làm vườn, Trồng rừng và Nấu ăn. Kỳ thi diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế. Hiện tại đang triển khai công tác chấm thi để công bố kết quả thi theo đúng kế hoạch.

Thực hiện Công văn số 4342/BGDĐT-GDTX ngày 07/9/2022 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn tổ chức “Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời năm 2022”, đầu tháng 10/2022, Sở Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với Ban Chỉ đạo xây dựng xã hội học tập cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị tổ chức Lễ Khai mạc và phát động tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời năm 2022. Đây là một trong những hoạt động nổi bật nhằm thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 14/CT-TTg và Quyết định số 1373/QĐ-TTg ngày 30/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030.

Thực hiện Chương trình “Sóng và máy tính cho em”, tính đến nay số tiền huy động được (cả hiện vật quy đổi) hơn 34,548 tỷ đồng, trong đó tiền mặt 32,578 tỷ đồng. Sở Giáo dục và Đào tạo đã triển khai các thủ tục mua sắm, đấu thầu theo quy định và đang chuẩn bị ký kết hợp đồng mua sắm với đơn vị trúng thầu.

b) Đào tạo

- Đào tạo đại học: Năm học 2022, chỉ tiêu tuyển sinh của Trường Đại học Quảng Bình là 687 chỉ tiêu hệ đại học chính quy. Theo báo cáo của Trường, số thí sinh trúng tuyển và đã nhập học đợt 1 là 250 sinh viên. Hiện tại, Trường Đại học Quảng Bình đang tiếp tục công tác tuyển sinh các đợt bổ sung theo kế hoạch tuyển sinh của Trường.

- Đào tạo nghề: Ngay khi ngành Du lịch phục hồi sau đại dịch, Trường trung cấp Du lịch - Công nghệ số 9 đã phối hợp với Sở Du lịch và các địa phương mở nhiều lớp đào tạo nghề phục vụ du lịch, đặc biệt là các lớp về du lịch cộng đồng cho người dân tại các địa phương hoạt động du lịch, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phấn đấu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

3. Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao

Hoạt động văn hóa trong tháng thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao, Sở Văn hóa và Thể thao tiếp tục tham mưu các nội dung thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao như đề xuất Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết về chính sách hỗ trợ xây dựng, nâng cấp hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2021 - 2025; tham mưu chuẩn bị các điều kiện để tổ chức thành công Liên hoan nghệ thuật quần chúng Công - Nông - Binh tỉnh Quảng Bình lần thứ VI năm 2022; tham mưu trình ký Quyết định ủy quyền cấp, cấp đổi, cấp điều chỉnh, thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ karaoke cho UBND cấp huyện. Trung tâm Văn hóa và Điện ảnh xuất bản “Bản tin Văn hóa tháng 10” đảm bảo tôn chỉ mục đích, tiếp tục biểu diễn chương trình văn nghệ và tổ chức chiếu phim lưu động tại một số điểm phục vụ bà con Nhân dân vùng sâu, vùng xa, các vùng đặc biệt khó khăn.

Trong tháng 10/2022, Quảng Bình tham gia Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch vùng biên giới Việt Nam - Lào lần thứ III với chủ đề “Thắm tình hữu nghị - Hướng tới tương lai” từ ngày 01-03/10/2022 tại thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng biên giới Việt Nam - Lào là sự kiện văn hoá, chính trị lớn, kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (05/9/1962 - 05/9/2022) và 45 năm ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào (18/7/1977 - 18/7/2022). Tham gia ngày hội, đoàn Quảng Bình đã biểu diễn các tiết mục nghệ thuật với các làn điệu dân ca, múa dân gian, nhạc cụ dân tộc mang nét riêng, độc đáo của các dân tộc đang sinh sống ở phía Tây Quảng Bình.

Thể thao phong trào trong tháng nổi bật với giải cầu lông, bóng bàn gia đình toàn tỉnh lần thứ I năm 2022, thu hút 130 vận động viên của 38 gia đình trên toàn tỉnh mang đến nhiều trận đấu hấp dẫn, kịch tính ở các nội dung: đôi vợ chồng, đôi bố và con trai hoặc anh em trai, đôi mẹ và con gái hoặc chị em gái, đôi bố và con gái hoặc mẹ và con trai, đôi anh và em gái hoặc chị và em trai. Giải sẽ được tổ chức hàng năm vào dịp kỷ niệm Ngày gia đình Việt Nam (28/6).

Thể thao thành tích cao trong mười tháng năm 2022 đã đạt được những thành tựu nổi bật, lũy kế từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao giành được 106 huy chương các loại (33 HCV, 32 HCB và 41 HCĐ).

4. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng (từ 15/9/2022-14/10/2022), trên địa bàn tỉnh xảy ra 6 vụ tai nạn giao thông, giảm 7 vụ so với tháng trước, tăng 1 vụ so với cùng kỳ năm 2021; trong đó tai nạn giao thông đường bộ 6 vụ, tai nạn giao thông đường sắt và đường thủy không xảy ra. Số người chết do tai nạn giao thông 3 người, giảm 3 người với tháng trước, tăng 2 người so với cùng kỳ năm 2021. Số người bị thương do tai nạn giao thông 6 người, giảm 3 người so với tháng trước, tăng 1 người so với cùng kỳ năm 2021.

Lũy kế 10 tháng năm 2022, toàn tỉnh đã xảy ra 90 vụ tai nạn giao thông, giảm 5 vụ so với cùng kỳ năm 2021, trong đó đường bộ 90 vụ, giảm 5 vụ so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 55 người, giảm 10 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 55 người, giảm 10 người so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 72 người, giảm 2 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 72 người, giảm 2 người so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2021.

Hình 9. Tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh

Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng trên địa bàn tỉnh không có vụ cháy xảy ra bằng tháng trước, bằng với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế 10 tháng năm 2022, toàn tỉnh đã xảy ra 7 vụ cháy với giá trị thiệt hại tạm ước tính 5.577 triệu đồng (trong đó, vụ cháy tàu cá phát sinh tháng 8 ước tính thiệt hại 2.055 triệu đồng) và 1,61 ha rừng. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ cháy giảm 6 vụ, giá trị thiệt hại tạm ước giảm 1.667,5 triệu đồng.

5. Tình hình thiên tai

Theo báo cáo của Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn kiêm BCH Phòng thủ dân sự tỉnh Quảng Bình, trong các ngày từ 15 đến  18/10/2022, khu vực phía Nam tỉnh Quảng Bình có nơi mưa to đến rất to, làm thiệt hại đến nhà cửa, hoa màu và các công trình giao thông khác, cụ thể: Nhà bị ngập 914 nhà (Quảng Ninh 306 nhà, Lệ Thuỷ 608 nhà); 20 thôn bản bị chia cắt; 25 điểm trường học (Lệ Thuỷ) bị ngập lụt. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản thiệt hại 3,64 ha. Các công trình thuỷ lợi như đê, kè sạt lở, hư hỏng với chiều dài 7,77 km; kênh mương hư hỏng 8,3 km. Chiều dài quốc lộ sạt lở, hư hỏng 4,5 km; khối lượng đất, đá sạt lở 30.000 m3; khối lượng đá, bê tông 4.500 m3; cống bị hư hỏng 01 cái. Đường tỉnh huyện, xã sạt lở, hư hỏng với chiều dài 6,8 km; khối lượng đất, đá sạt lở 13.215 m3; khối lượng đá, bê tông 2.750 m3; cầu bị hư hỏng 01 cái và cống bị hư hỏng 03 cái. Diện tích hoa màu thiệt hại 35,7 ha; cây trồng hàng năm 4,2 ha; trâu chết 01 con (Lệ Thuỷ),... Ước tính tổng giá trị thiệt hại ban đầu là 75,08 tỷ đồng. Luỹ kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 4 vụ thiên tai; ước tính tổng giá trị thiệt hại 243 tỷ đồng, gấp 5,65 lần so với cùng kỳ năm 2021./.

[1] Nguồn: Báo cáo số 208/BC-BCH ngày 20/10/2022 của BCH phòng chống thiên tai và TKCN;

[2] Nguồn: Báo cáo số 540/BC-CNTY ngày 21/10/2022 của Chi cục Chăn nuôi và Thú y;

[3] Nguồn: Báo cáo số 3676/BC-CTBI ngày 19/10/2022 của Cục Thuế tỉnh Quảng Bình;

[4] Nguồn: Báo cáo số 779/BC-QUB ngày 18/10/2022 của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Quảng Bình.

[Trở về]