THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 năm 2017 tỉnh Quảng Bình 
     I. KINH TẾ

     1. Nông nghiệp

     a. Trồng trọt

     Tháng 11, các địa phương triển khai thu hoạch lúa vụ Mùa năm 2017. Do ảnh hưởng bão số 10 nên diện tích lúa vụ Mùa mất trắng khá nhiều ở địa phương huyện Bố Trạch. Theo đó, năng suất bình quân đạt 6,41 tạ/ha, so năm trước bằng 49,8%. Sản lượng lúa vụ Mùa đạt 356 tấn, so năm trước bằng 49,6%.

     Tuy vụ Mùa đạt thấp nhưng nhìn chung kết quả sản xuất cây trồng hàng năm đạt khá. Năng suất nhiều loại cây trồng đạt cao và tăng so năm 2016. Đặc biệt sản xuất cây lương thực vẫn ổn định về mặt diện tích, sản lượng lương thực tăng cao và vượt xa mức kế hoạch đề ra.

     Tình hình triển khai sản xuất Đông Xuân 2018: Do ảnh hưởng bão số 10 nên tình hình triển khai sản xuất Đông Xuân 2018 gặp nhiều khó khăn, một số cây trồng vụ Đông Xuân sớm chậm thời vụ so năm trước. Tuy nhiên, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và bà con nông dân nên tiến độ triển khai và gieo trồng được đẩy nhanh nhằm tập trung sản xuất rau màu cung cấp sản phẩm thời kỳ giáp hạt. Nhờ đó, trong tháng 11 diện tích gieo trồng thực hiện tăng so cùng kỳ năm trước. Diện tích gieo trồng vụ Đông xuân thực hiện 2.666 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 4,4%. Cụ thể chia theo nhóm cây như sau: Cây ngô và cây lương thực có hạt 382 ha, tăng 9,1%; cây lấy củ có chât bột 973 ha, tăng 2%; cây rau đậu các loại 1.106 ha, tăng 0,6%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 80 ha, tăng 14,3%; cây hàng năm khác 125 ha, tăng 56,3% (tăng cây thức ăn nuôi bò). Hiện tại, các địa phương đang đẩy nhanh tiến độ làm đất cây lúa; thực hiện công tác chuẩn bị như giống, phân bón, triển khai tu sửa nạo vét kênh mương nhằm thực hiện thắng lợi sản xuất đông xuân 2018.

     b. Chăn nuôi

     Nhờ thực hiện tốt công tác kiểm soát dịch bệnh, chủ động triển khai các đợt tiêm vắc xin nên đã khống chế được dịch bệnh nguy hiểm xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm (chỉ có dịch lở mồm long móng xảy ra tại thị xã Ba Đồn và huyện Tuyên Hóa nhưng không có gia súc chết phải tiêu hủy). Theo đó, tổng đàn gia súc, gia cầm phát triển tương đối ổn định; sản lượng xuất chuồng một số sản phẩm tăng cao. Riêng đàn lợn tái đàn chậm do người sản xuất không đầu tư vì giá cả không ổn định và giảm sâu so năm trước.

     Dự ước sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong tháng 11 và 11 tháng:

     Thịt trâu xuất chuồng trong tháng 166 tấn; 11 tháng 1.971 tấn, so năm trước tăng 5,6%; thịt bò xuất chuồng trong tháng 398,2 tấn; 11 tháng 5.606 tấn, so năm trước tăng 2,4%; thịt lợn xuất chuồng trong tháng 4.607 tấn; 11 tháng 48.055 tấn, so năm trước tăng 1,8%; thịt gia cầm xuất chuồng trong tháng 1.502 tấn; 11 tháng 13.110 tấn, so năm trước tăng 10,8 %; trong đó thịt gà 11 tháng đạt 9.322 tấn, tăng 15,6%. 

     Nổi bật trong chăn nuôi gia cầm là theo hướng tập trung được mở rộng quy mô và hệ số xuất chuồng tăng; một số doanh nghiệp đang tích cực triển khai dự án chăn nuôi trâu, bò có chất lương cao và bước đầu mang lại kết quả khá. Chăn nuôi lợn đang có xu hướng cầm chừng do giá bán sản phẩm không ổn định.

     Các địa phương tiếp tục triển khai tiêm văc xin đợt II năm 2017. Đến 10/11/2017, kết quả tiêm như sau: Tụ huyết trùng trâu/bò 53.635 liều, đạt 67,0% kế hoạch; Dịch tả lợn, tam liên 34.330 liều, đạt 24,4% kế hoạch; Cúm gia cầm 412.000 liều, đạt 41,2% kế hoạch; Tai xanh lợn 6.930 liều, đạt 68,1%. 

     2. Lâm nghiệp

     Trong tháng 11, các chủ rừng đẩy nhanh tiến độ trồng rừng theo kế hoạch được giao đầu năm. Trong tháng đã trồng 2.610 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 6,5%; 11 tháng trồng 4.367 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 5,3%. Dự kiến đến giữa tháng 12 sẽ hoàn thành kế hoạch trồng rừng tập trung.

     Cây lâm nghiệp trồng phân tán trong tháng 715 ngàn cây; 11 tháng trồng 3.805 ngàn cây, tăng 3,26% so cùng kỳ năm trước.

     Do ảnh hưởng bão số 10 nên diện tích rừng trồng bị thiệt hại khá nặng, theo đó các chủ rừng đẩy nhanh tiến độ khai thác trong các tháng cuối năm. Dự ước tháng 11 khai thác gỗ rừng trồng 34.500 m3, củi 44.705 ste. Dự ước 11 tháng, sản lượng gỗ khai thác 295.500 m3, tăng 13,4%; sản lượng củi khai thác 245.300 ste, tăng 14,7% so cùng kỳ năm trước.

     Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành thực sự quan tâm. Tuy nhiên, do nắng nóng kéo dài trong các tháng Hè nên hiện tượng cháy rừng có xẩy ra nhưng quy mô thiệt hại không đáng kể. Từ tháng 8 đến nay, chưa xẩy ra hiện tượng cháy rừng.

     3. Thuỷ sản

     Những ngày đầu tháng 11, thời tiết diễn biến phức tạp, áp thấp nhiệt đới và bão xuất hiện nhiều hơn so các năm. Vì vậy, hoạt động khai thác, nuôi trồng gặp nhiều khó khăn, do đó sản lượng thủy sản thực hiện trong tháng 11 đạt thấp hơn so các tháng trước.

     Dự ước sản lượng thủy sản tháng 11 đạt 4.212,6 tấn; 11 tháng đạt 66.540,9 tấn, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Cá đạt 53.386,3 tấn, tăng 18,2%; tôm đạt 4.507,4 tấn, bằng 91,0%; thủy sản khác đạt 8.647,2 tấn, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước.

     a. Khai thác

     Dự ước tháng 11 sản lượng thuỷ sản khai thác 3.758,5 tấn; 11 tháng khai thác 55.706,3 tấn, tăng 19,4% so cùng kỳ. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 46.474,1 tấn, tăng 20,3%; tôm các loại 961,2 tấn, tăng 12,6%; thuỷ sản khác 8.271,0 tấn, tăng 15,3% so cùng kỳ năm trước. Sản phẩm chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 52.590,4 tấn, tăng 20,3%; khai thác nội địa 3.115,9 tấn, tăng 6,5% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác chia theo địa phương: Đồng Hới 9.327,5 tấn, tăng 23,4%; Ba Đồn 9.320,5 tấn, tăng 25,2%; Minh Hoá 90,1 tấn, tăng 3,9%; Tuyên Hoá 154,6 tấn, tăng 5,0%; Quảng Trạch 10.826,1 tấn, tăng 15,7%; Bố Trạch 19.344,0 tấn, tăng 12,4%; Quảng Ninh 2.189,2 tấn, tăng 44,2%; Lệ Thuỷ 4.454,3 tấn, tăng 34,0% so cùng kỳ năm trước.

     b. Nuôi trồng

     Dự ước tháng 11 sản lượng nuôi trồng thu hoạch 454,1 tấn; 11 tháng thu hoạch 10.834,6 tấn, bằng 98,8% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 6.912,2 tấn, tăng 5,9%; tôm các loại 3.546,2 tấn, bằng 86,5%; thuỷ sản khác 376,2 tấn, tăng 10,6% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo mặt nước: Nước lợ 4.079,2 tấn, bằng 88,4%; nuôi nước ngọt 6.755,4 tấn, tăng 6,3% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo địa phương: Thành phố Đồng Hới 861,0 tấn, tăng 5,8%; thị xã Ba Đồn 1.789,6 tấn, bằng 75,2%; huyện Minh Hoá 86,9 tấn, tăng 1,3%; huyện Tuyên Hoá 344,7 tấn, tăng 2,5%; huyện Quảng Trạch 828,7 tấn, bằng 98,0%; huyện Bố Trạch 2.630,6 tấn, tăng 9,4%; huyện Quảng Ninh 1.370,9 tấn, tăng 0,8%; huyện Lệ Thuỷ 2.922,2 tấn, tăng 6,5% so cùng kỳ năm trước.

     Kết quả sản xuất thủy sản cho thấy tình hình đánh bắt thủy sản từ đầu năm đến nay đã cơ bản ổn định, nhiều tàu có công suất cao được cải hoán, đóng mới đi vào hoạt động. Nhờ đó, khai thác xa bờ phát triển khá và mang lại hiệu quả cao. Tình hình nuôi trồng thủy sản có những khó khăn nhất định, bão lũ xuất hiện bất thường, dịch bệnh đốm trắng xẩy ra ở một số nơi nên sản lượng nuôi trồng giảm so cùng kỳ năm trước.   

     4. Công nghiệp

     Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tính đến tháng 11 năm 2017 có tốc độ tăng trưởng khá trong điều kiện ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh có quy mô còn nhỏ cả về giá trị sản xuất và số cơ sở hoạt động ngành công nghiệp.

     Chỉ số sản xuất công nghiệp tính đến cuối tháng 11 năm 2017 ước tính tăng 7,0% so với cùng kỳ năm 2016. Để đạt được kết quả trên nhờ vào các năng lực mới tăng và có đóng góp vào tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp (như Nhà máy may S&D ở huyện Quảng Ninh; Nhà máy may ở huyện Lệ Thủy;…). Cùng với đó là các năng lực hiện có của một số ngành sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại; ngành chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ; ngành chế biến thực phẩm; ngành sản xuất đồ uống (như Nhà máy xi măng Sông Gianh; Nhà máy xi măng Văn Hóa; Nhà máy xi măng Vạn Ninh; Xí nghiệp may Hà Quảng; Nhà máy tinh bột sắn; Công ty CP Bia Hà Nội - Quảng Bình và các nhà máy chế biến dăm gỗ;…) vẫn duy trì sản xuất ổn định .

     Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11 năm 2017 ước tính tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 9,1% so với tháng 11 năm 2016. Tính chung 11 tháng đầu năm 2017 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,0% so với cùng kỳ, trong đó: ngành khai khoáng tăng 7,3%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 4,3%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,2%.  

     Chỉ số sản xuất công nghiệp ước thực hiện 11 tháng đầu năm 2017 của một số ngành công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như sau: Ngành sản xuất trang phục tăng 13,7%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 11,4%; ngành khai khoáng khác (đá xây dựng) tăng 7,0%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 5,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,3%; xử lý và cung cấp nước tăng 4,4%; ngành in, sao chép bản ghi các loại tăng 3,9%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 3,5%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3,8%; ngành sản xuất đồ uống tăng 0,8%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 1,1%;...

     Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước thực hiện 11 tháng năm 2017 so với cùng kỳ như sau: Đá xây dựng đạt 3,0 triệu m3, tăng 7,0%; mực đông lạnh đạt 634 tấn, giảm 6,3%; tinh bột sắn đạt 13.919 tấn, tăng 5%; bia đóng chai đạt 18,6 triệu lít, tăng 0,7%; áo sơ mi đạt 9,8 triệu cái, tăng 13,8%; gạch lát nền đạt 4,1 triệu m2, giảm 29,9% (do trong tháng 01 và tháng 02/2017 công ty cổ phần Gốm sứ và xây dựng Cosevco ngừng sản xuất để bảo trì máy móc, thiết bị); gạch xây dựng đạt 196,1 triệu viên, tăng 1,4%; clinker thành phẩm đạt 2,9 triệu tấn, tăng 6,4%; xi măng đạt 1,4 triệu tấn, giảm 1,2%; điện thương phẩm đạt 727,0 triệu Kwh, tăng 4,3%; mước máy đạt 7,5 triệu m3, tăng 4,4% so cùng kỳ năm trước…

     5. Vốn đầu tư

     Khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 11 năm 2017 ước thực hiện 348,1 tỷ đồng, tăng 7,0% so với tháng trước và tăng 13,5% so với tháng cùng kỳ năm 2016.

     Tính chung 11 tháng năm 2017, khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh ước thực hiện 3.327,3 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, vốn ngân sách Trung ương quản lý ước thực hiện 864,2 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương quản lý ước thực hiện 2.463,1 tỷ đồng. Vốn đầu tư Nhà nước quản lý phân theo một số ngành kinh tế như sau: Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản ước thực hiện 330,5 tỷ đồng, tăng 2,4%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước thực hiện 132,5 tỷ đồng, tăng 2,3%; ngành vận tải kho bãi ước thực hiện 1.837,0 tỷ đồng, tăng 10,4%; ngành an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước ước thực hiện 276,9 tỷ đồng, tăng 11,7%; ngành giáo dục và đào tạo ước thực hiện 165,2 tỷ đồng, tăng 3,7%; ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội ước thực hiện 170,9 tỷ đồng, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm 2016;…

     Triển khai thực hiện Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 03/8/2017 của Chính phủ về những nhiệm vụ giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công, UBND tỉnh đã có Công văn số 1550/UBND-KTTH ngày 25/8/2017 về việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2017. UBND tỉnh chỉ đạo các Sở, ban, ngành cấp tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố và các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành việc giao chi tiết kế hoạch đầu tư công năm 2017 và kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020; tập trung đẩy nhanh thực hiện và giải ngân vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công năm 2017… Theo đó, các ngành chức năng chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới, các công trình kỹ thuật dân dụng, cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh để đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra. Bên cạnh đó, công tác lập chế độ báo cáo, theo dõi và đánh giá thực hiện đầu tư công, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tăng cường công tác theo dõi, kiểm tra, thanh tra và thực hiện kế hoạch cũng được quan tâm.

     6. Thương mại, dịch vụ

     a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

     Tháng 11/2017, hoạt động bán lẻ hàng hoá tăng cao so tháng trước do sức mua cuối năm tăng cao, thị trường hàng hoá phong phú, lượng tiền cung ra thị trường nhiều hơn, giá cả thị trường ổn định, các cơ sở bán lẻ tung nhiều hoạt động khuyến mãi kích thích mua sắm.

     Cụ thể, tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 10/2017 đạt 1.540,4 tỷ đồng; dự tính tháng 11/2017 tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 1.574,1 tỷ đồng, tăng 2,2% so tháng trước và tăng 10,7% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 16.493,3 tỷ đồng, tăng 8,9% so cùng kỳ.

     Phân theo loại hình kinh tế:

     - Kinh tế Nhà nước: Dự ước tháng 11/2017 doanh thu đạt 76,6 tỷ đồng, tăng 1,3% so tháng trước và tăng 30,9% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 doanh thu ước đạt 778,2 tỷ đồng, tăng 21,8% so cùng kỳ. Đây là thành phần tăng cao nhất trong các thành phần kinh tế do sự phục hồi của công ty Xăng dầu Quảng Bình.

     - Kinh tế tập thể: Dự ước tháng 11/2017 doanh thu đạt 0,91 tỷ đồng, giảm 0,4% so tháng trước và tăng 5,9% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 doanh thu ước đạt 10,2 tỷ đồng, giảm 18,6% so cùng kỳ, nguyên nhân do các hợp tác xã kinh doanh thương mại càng ngày càng bị thu hẹp quy mô kinh doanh do tính cạnh tranh trên thị trường thấp.

     - Kinh tế cá thể: Dự ước tháng 11/2017 doanh thu đạt 923,7 tỷ đồng, tăng 3,2% so tháng trước và tăng 9,4% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 doanh thu ước đạt 9.537,6 tỷ đồng, tăng 8,3% so cùng kỳ. Đây là thành phần kinh tế tăng ổn định nhất trong tổng mức bán lẻ hàng hoá do quy mô nhỏ lẻ nên ít bị biến động bởi yếu tố thị trường.

     - Kinh tế tư nhân: Dự ước tháng 11/2017 doanh thu đạt 572,9 tỷ đồng, tăng 0,7% so tháng trước và tăng 10,6% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 doanh thu ước đạt 6.167,4 tỷ đồng, tăng 8,4% so cùng kỳ.

     Phân theo nhóm ngành hàng:

     Trong tháng 11/2017, doanh thu tất cả các nhóm hàng đều tăng cao so với tháng trước, ngoại trừ nhóm hàng gỗ và vật liệu xây dựng, cụ thể như sau:

     Nhóm ô tô các loại tăng 7,1%, do các công ty kinh doanh ô tô trên thị trường như Trường Hải, Toyota tiếp tục giảm giá, khuyến mãi, đẩy các loại xe đời cũ ra thị trường để chuẩn bị cho chính sách ô tô mới trong năm 2018.

     Nhóm hàng may mặc tăng 4,4%, nguyên nhân tăng cao do thời tiết chuyển sang mùa đông nên giá trị cũng như nhu cầu mua sắm cao.

     Các nhóm còn lại có mức tăng cụ thể như sau: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 3,4%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 3,1%; nhóm vật phẩm, văn hoá giáo dục tăng 4,6%; nhóm phương tiện đi lại tăng 2,9%; nhóm xăng dầu các loại tăng 1,0%; nhóm nhiên liệu khác tăng 4,4%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 2,5%; nhóm hàng hóa khác tăng 5,6%; nhóm sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ tăng 6,3%.

     Nhóm gỗ và vật liệu xây dựng giảm 3,9%, do bước vào mùa mưa nên các hoạt động xây dựng giảm.

     b. Lưu trú, ăn uống và du lịch

     Tháng 11 hoạt động du lịch lữ hành và dịch vụ lưu trú giảm so với tháng trước do bước vào mùa mưa bão. Lượng khách ít nên một số công ty lữ hành ngừng khai thác tour du lịch sinh thái, một số hang động ngừng hoạt động theo lịch “nghỉ” hàng năm. Lượng khách du lịch giảm so với tháng trước kéo theo lượt khách cũng như doanh thu lưu trú giảm.

     - Dịch vụ lưu trú

     Tháng 11 doanh thu cũng như lượt khách lưu trú giảm so tháng trước theo đúng chu kỳ mùa vụ du lịch trên địa bàn tỉnh. Dự ước tháng 11 doanh thu lưu trú đạt 7,4 tỷ đồng, giảm 16,5% so tháng trước và tăng 85,4% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 doanh thu ước đạt 105,8 tỷ đồng, tăng 45,4% so cùng kỳ.

     Số lượt khách lưu trú tháng 11 ước đạt 45.194 lượt khách, giảm 15,9% so tháng trước và tăng 95,0% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 ước đạt 631.832 lượt khách, tăng 46,3% so cùng kỳ.

     Ngày khách: Dự ước tháng 11 đạt 57.502 ngày khách, giảm 13,9% so tháng trước và tăng 13,9% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 ước đạt 724.497 ngày khách, tăng 54,9% so cùng kỳ.

     - Dịch vụ ăn uống

     Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 11 ước đạt 122,5 tỷ đồng, tăng 2,5% so tháng trước và tăng 18,8% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 doanh thu ước đạt 1.519,3 tỷ đồng, tăng 16,5% so cùng kỳ.

     - Dịch vụ lữ hành

     Dự ước tháng 11 doanh thu lữ hành đạt 6,5 tỷ đồng, giảm 16,8% so tháng trước và tăng 63,4% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 doanh thu ước đạt 205,3 tỷ đồng, tăng 24,9% so cùng kỳ.

     Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 11 ước đạt 25.914 lượt khách, giảm 13,3% so tháng trước và tăng 1,7% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 ước đạt 702.760 lượt khách, tăng 15,7% so cùng kỳ.

     Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 11 ước đạt 7.148, tăng 1,1% so tháng trước và tăng 54,5% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 ước đạt 92.334 lượt khách, tăng 33,0% so cùng kỳ. Nhìn chung, lượt khách quốc tế tăng khá cao, nguyên nhân do Sở Du lịch đã có nhiều hình thức quảng bá hình ảnh du lịch Quảng Bình đến thị trường quốc tế. Ngoài ra, do Việt Nam tiếp tục nới lỏng chính sách visa (đến nay đã miễn thị thực cho 83 nước), đặc biệt là 5 nước Tây Âu (Anh, Đức, Pháp, Italy và Tây Ban Nha) tạo điều kiện cho khách quốc tế đến Việt Nam được thuận lợi hơn.

     - Du lịch tâm linh

     Số lượt khách du lịch tâm linh tháng 11 năm 2017 ước đạt 201.900 lượt khách, tăng 5,6% so tháng trước và tăng 254,5% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 ước đạt 2.185.860 lượt khách, tăng 75,7% so cùng kỳ.

     c. Dịch vụ

     Hoạt động dịch vụ tháng 11/2017 tăng khá so với tháng trước, các nhóm ngành tăng tương đối đồng đều, trong đó tăng cao nhất là nhóm dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, tiếp đó là nhóm dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình và nhóm dịch vụ khác.

     Cụ thể, doanh thu tháng 10/2017 đạt 83,8 tỷ đồng, dự tính tháng 11/2017 doanh thu đạt 85,2 tỷ đồng, tăng 1,7% so tháng trước và tăng 10,1% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2017 doanh thu ước đạt 888,9 tỷ đồng, tăng 7,7% so cùng kỳ.

     Xét theo từng nhóm dịch vụ, mức tăng cụ thể của từng nhóm so với tháng trước như sau: Hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 1,1%; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 1,5%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 1,1%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,9% (do tình hình dịch bệnh bùng phát); dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 1,4%; dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 2,7%; hoạt động dịch vụ khác tăng 2,1%.

     d. Hoạt động vận tải

     Hoạt động vận tải từ đầu năm đến nay phát triển khá toàn diện, hệ thống giao thông được sửa chữa, nâng cấp và làm mới, phương tiện vận chuyển ngày càng được tăng cường và đổi mới cả về đường bộ, đường sông và đường biển, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa cũng như đi lại của người dân. Vận tải công cộng trong tỉnh tăng về số lượng phương tiện và chất lượng phục vụ được nâng cao, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Trong năm, một số hãng taxi tăng số lượng xe để đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân tốt hơn. Đầu tháng 8 năm nay, đường bay quốc tế đầu tiên ở Đồng Hới đi Chiang Mai (Thái Lan) chính thức được triển khai. Do vậy, hoạt động vận tải năm 2017 có nhiều chuyển biến tích cực hơn.

     Tổng doanh thu vận tải tháng 11 ước đạt 267,2 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước. Cộng dồn 11 tháng doanh thu vận tải ước đạt 2.879,7 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 510,7 tỷ đồng, tăng 8,2%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 2.025,1 tỷ đồng, tăng 7,7%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 343,9 tỷ đồng, tăng 8,3% so cùng kỳ.

     Tổng số hành khách vận chuyển tháng 11 ước đạt 2,0 triệu hành khách, tăng 3,5% so tháng trước; cộng dồn 11 tháng ước đạt 20,4 triệu hành khách, tăng 7,8% so với cùng kỳ. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 11 ước đạt 88,5 triệu hk.km, tăng 2,8% so với tháng trước; cộng dồn 11 tháng ước đạt 913,1 triệu hk.km, tăng 8,1% so với cùng kỳ.

     Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 11 ước đạt 1,7 triệu tấn, tăng 0,5% so với tháng trước; cộng dồn 11 tháng ước đạt 18,8 triệu tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ. Tổng khối lượng hàng hoá luân chuyển tháng 11 ước đạt 92,6 triệu tấn.km, tăng 2,3% so với tháng trước; cộng dồn 11 tháng ước đạt 992,4 triệu tấn.km, tăng 7,0% so với cùng kỳ.

     f. Giá tiêu dùng(CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

     * Chỉ số giá tiêu dùng

     Chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Quảng Bình tháng 11 năm 2017 tăng 0,08% so với tháng trước, tăng 1,31% so với cùng kỳ năm trước, tăng 1,20% so với tháng 12 năm trước; tăng 10,36% so với kỳ gốc 2014; CPI bình quân 11 tháng năm 2017 so với cùng kỳ năm trước tăng 4,58% (trong đó: nhóm hàng hóa tăng 0,71%; nhóm dịch vụ tăng 11,21%).

     Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 05 nhóm tăng, 02 nhóm giảm và 04 nhóm ổn định so với tháng trước, cụ thể như sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,33%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,12%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,25%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,24%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%; nhóm giao thông giảm 0,88%; nhóm văn hóa giải trí du lịch giảm 0,11%; riêng các nhóm đồ uống thuốc lá, nhóm bưu chính viễn thông, nhóm giáo dục, nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có chỉ số ổn định.

     Cụ thể diễn biến CPI tháng 11 năm 2017 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:

     - Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,33%;

     - Nhóm May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,12%;

     - Nhóm Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,25%;

     - Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,24%;

     - Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%;

     - Nhóm giao thông giảm 0,88%;

     - Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,11%.

     * Chỉ số giá vàng 99,99% và chỉ số giá đô la Mỹ (USD)

     Giá vàng trong nước biến động hàng ngày theo giá vàng thế giới. Theo đó, bình quân giá vàng tháng này là 3.535.635 đồng/chỉ, giảm 0,37% so với tháng trước, so với kỳ gốc 2014 tăng 7,47%, tăng 3,53% so cùng tháng năm trước, tăng 6,33% so tháng 12 năm trước, tăng 3,06% so bình quân cùng kỳ.

     Giá đô la Mỹ (USD) tháng này có giá bình quân 22.724 đồng/USD, tăng 0,14% so với tháng trước, so với kỳ gốc 2014 tăng 4,08%; tăng 1,68% so cùng tháng năm trước; giảm 1,21% so tháng 12 năm trước và tăng 1,84% so với bình quân cùng kỳ.

     7. Thu, chi ngân sách, ngân hàng

     a. Thu ngân sách

     Tổng thu ngân sách trên địa bàn 11 tháng năm 2017 ước thực hiện 3.005,3 tỷ đồng, bằng 89,8% dự toán địa phương giao và tăng 24,0% so với cùng kỳ; trong đó, thu nội địa ước thực hiện 2.892,8 tỷ đồng, bằng 92,0% dự toán địa phương giao, tăng 25,7%; thu thuế xuất nhập khẩu ước thực hiện 112,5 tỷ đồng, bằng 56,3% dự toán địa phương giao,  giảm 7,5% so với cùng kỳ.

     Trong tổng số thu ngân sách 11 tháng năm 2017, có các khoản thu tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2016 và dự toán địa phương giao: Thu ngoài quốc doanh đạt 119,1% dự toán địa phương giao, bằng 163,4% so với cùng kỳ; thu phí và lệ phí đạt 128,2% dự toán địa phương và bằng 285,3% so với cùng kỳ; thu tại xã đạt 111,0% so với dự toán địa phương và đạt 150,1% so cùng kỳ…

     b. Chi ngân sách

     Tổng chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn 11 tháng năm 2017 ước thực hiện 8.902,4 tỷ đồng, bằng 94,4% so với cùng kỳ. Trong đó chi đầu tư phát triển ước thực hiện 2.519,1 tỷ đồng, bằng 80,4%; chi thường xuyên ước thực hiện 6.383,3 tỷ đồng, tăng 1,4% so với cùng kỳ.

     Nhìn chung, các khoản thu ngân sách nhà nước được tập trung đầy đủ, kịp thời và điều tiết đúng theo tỷ lệ cho các cấp ngân sách; các khoản chi ngân sách được chi trả kịp thời, đảm bảo đúng chế độ quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước trên địa bàn.

     b. Ngân hàng

     - Thực hiện các Chương trình tín dụng: Các tổ chức tín dụng đã thực hiện cho vay theo NĐ 67/2014/NĐ-CP; cho vay theo NĐ 55/2015/NĐ-CP; cho vay thực hiện CTMTQG xây dựng nông thôn mới; lĩnh vực xuất khẩu; cho vay DNNVV, lĩnh vực công nghiệp và hỗ trợ,... Có kế hoạch tổ chức thực hiện tốt các chương trình tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp, triển khai các gói tín dụng một cách chủ động từ các Ngân hàng. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính để hỗ trợ DN theo Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 của Chính phủ. Chỉ đạo tập trung ưu tiên vốn vay cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên.Ưu tiên cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách,...

     - Tình hình thực hiện lãi suất: Các TCTD trên địa bàn thực hiện đúng các quy định và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất tiền gửi của tổ chức, cá nhân; lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam đối với nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế theo Quyết định 1425/QĐ-NHNN, ngày 07/7/2017 của NHNN. Chủ động cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn để đảm bảo thanh khoản. Thưc hiện các giải pháp tiết giảm chi phí hoạt động, để có cơ sở giảm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên... Hiện nay, lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến khoảng 7,0-9,5%, khách hàng tốt, từ 5,5-6%; trung, dài hạn từ 9-11% và cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên 6,5-7,5%.

     - Huy động vốn: Đến 31/10/2017, tổng nguồn vốn huy động đạt 31.384 tỷ đồng, tăng 14,7% so đầu năm. Trong đó: Tiền gửi dân cư 26.203 tỷ đồng, chiếm 83,4% tổng nguồn vốn, tăng 19% so đầu năm.

     - Dư nợ cho vay: Năm 2017, các TCTD trên địa bàn tích cực chủ động tìm kiếm đối tượng, dự án và khách hàng có năng lực, khách hàng tốt để cho vay, với mục tiêu mở rộng quy mô dư nợ gắn liền với cải thiện và nâng cao chất lượng tín dụng. Nguyên nhân dư nợ cho vay tăng không đáng kể so đầu năm do 2 Nhà máy Xi măng (Sông Gianh và Văn Hóa) với dư nợ giảm 2.539 tỷ đồng, hai Nhà máy Xi măng này được Tập đoàn SCG (Thái Lan) mua lại và đã trả hết nợ vay tại các ngân hàng trên địa bàn. Nhìn chung, các nhu cầu vốn phục vụ lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đều được đáp ứng. Đến 31/10/2017, tổng dư nợ cho vay 37.842 tỷ đồng, tăng 4,2% so đầu năm. Trong đó: Dư nợ cho vay VNĐ 37.665 tỷ đồng, tăng 7,1% so đầu năm; dư nợ cho vay ngắn hạn 17.162 tỷ đồng, tăng 7,6% so đầu năm. Cho vay Nông, lâm, ngư, diêm nghiệp chiếm khoảng 25% tổng dư nợ; Công nghiệp, xây dựng chiếm khoảng 29% tổng dư nợ; Thương mại, dịch vụ và ngành khác chiếm khoảng 46% tổng dư nợ.

     - Chất lượng tín dụng: Theo số liệu báo cáo của các TCTD, đến 30/9/2017, toàn tỉnh nợ xấu nội bảng là 455 tỷ đồng, chiếm 1,2% tổng dư nợ cho vay; nợ xấu đã bán cho VAMC 204 tỷ đồng; nếu tính cả nợ xấu đã bán cho VAMC thì tổng nợ xấu là 659 tỷ đồng, chiếm 1,7% tổng dư nợ cho vay.

     II. Xã hội

     1. Giáo dục - Đào tạo

     a. Năm học 2016 - 2017

     Năm học 2016 - 2017, ngành Giáo dục tuy còn một số mặt hạn chế, bất cập như: tỷ lệ học sinh bỏ học ở cấp THCS, THPT ở các địa bàn miền núi còn cao phần nào đã ảnh hưởng đến công tác phổ cập giáo dục cũng như tác động đến tâm lý xã hội; chất lượng phổ cập giáo dục ở một số địa phương vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn triển khai chưa đảm bảo yêu cầu, thiếu vững chắc; cơ sở vật chất, trường, lớp, thiết bị dạy học, tuy có tăng đáng kể nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều nơi còn lạc hậu; bên cạnh đó những khó khăn, thách thức do ảnh hưởng tác động của sự cố môi trường biển và các trận lũ lụt liên tiếp trong đầu năm học 2016 - 2017... Nhưng được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tỉnh ủy, HĐND, UBND; sự phối hợp giúp đỡ có hiệu quả của các ban ngành, ngành Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình đã nỗ lực phấn đấu, tập trung triển khai thực hiện các nhóm nhiệm vụ chủ yếu và giải pháp cơ bản, nên đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.

     - Giáo dục mầm non

     Ngành đã có nhiều giải pháp tích cực trong việc chỉ đạo các đơn vị nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ, đặc biệt là chất lượng tổ chức bán trú ở các trường mầm non, hiện có 177/179 trường tổ chức bán trú (tỷ lệ 98,9%); 100% trẻ Nhà trẻ được ăn bán trú với nhiều hình thức; 96,1% trẻ Mẫu giáo được ăn bán trú. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm đáng kể, nhà trẻ có 2,9% trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và 3,7% trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi; mẫu giáo có 4,3% trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và 4,5% trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi; 100% trẻ được theo dõi và khám sức khoẻ định kỳ, 100% trẻ được đảm bảo an toàn tuyệt đối về thể chất và tinh thần không có trẻ bị tai nạn thương tích, ngộ độc thực phẩm trong các trường mầm non; 100% trẻ được học 2 buổi/ngày.

     Tập trung chỉ đạo mô hình điểm các cấp về xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm để tổ chức tham quan, học tập, rút kinh nghiệm và nhân rộng điển hình. Có 04 đơn vị được chọn chỉ đạo điểm cấp tỉnh và 30 đơn vị điểm cấp huyện. Trực tiếp tập huấn cho cán bộ giáo viên quản lý, giáo viên cốt cán của 08 huyện, thị xã, thành phố về nội dung cơ bản xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm, tổ chức thực hành các hoạt động giáo dục, triển khai thực hiện.

      - Giáo dục phổ thông

     Cấp tiểu học: Thực hiện nghiêm túc Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo quy định, bám sát Chuẩn kiến thức - kỹ năng và hướng dẫn điều chỉnh nội dung chương trình các môn học, nội dung dạy học theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN), có 114 trường nhân rộng toàn phần với 24.622 học sinh/994 lớp, tất cả các trường còn lại thực hiện nhân rộng mức độ 1. Thực hiện có hiệu quả dạy học Tiếng Việt lớp 1- Công nghệ giáo dục với 12.360 học sinh/551 lớp. Chất lượng môn Tiếng Việt lớp 1 đạt cao, kĩ năng đọc, viết và các kĩ năng học tập được đánh giá tốt hơn so với chương trình hiện hành. Tiếp tục chỉ đạo dạy học theo Đề án ngoại ngữ quốc gia đến năm 2020 tại 215/228 trường có học sinh Tiểu học với 58.921 học sinh. Triển khai dạy học Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch ở tất cả các trường Tiểu học, bước đầu giáo viên đã thực hiện tốt, học sinh yêu thích môn học và có sản phẩm đạt yêu cầu, chất lượng cao.

     Ngành Giáo dục và Đào tạo tích cực chỉ đạo các trường Tiểu học thực hiện nghiêm túc việc đánh giá học sinh theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT và Văn bản hợp nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kết quả đánh giá năng lực: Tự phục vụ tự quản: 63,41% số em đạt loại tốt, 36,21% số em đạt và 0,38% số em cần cố gắng; Hợp tác: đạt tốt 61,68%, đạt 37,88%, cần cố gắng 0,44%; Tự học và giải quyết vấn đề: đạt tốt 59,54%, đạt 39,96% và cần cố gắng 0,50%. Kết quả xếp loại môn học: môn Toán,  học sinh hoàn thành tốt 56,68%, học sinh hoàn thành 42,66%, học sinh chưa hoàn thành 0,66%; Môn Tiếng Việt: tỷ lệ học sinh hoàn thành tốt 51,95%, tỷ lệ học sinh hoàn thành 47,33% và tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành 0,72%.

     Cấp trung học cơ sở: Kết quả xếp loại 2 mặt cấp THCS, về hạnh kiểm tỷ lệ học sinh được xếp loại tốt 78,27%, khá 19,59%, loại trung bình 2,08%, loại yếu 0,06%. Về học lực xếp loại giỏi 19,18%; loại khá 40,36%, loại trung bình 38,10%, loại yếu 2,33%, loại kém 0,03%. Số học sinh được công nhận tốt nghiệp cấp trung học cơ sở toàn tỉnh 12.266/12.318 học sinh dự xét, đạt tỷ lệ 99,58%.

     Cấp trung học phổ thông: Kết quả xếp loại về hạnh kiểm tỷ lệ học sinh được xếp loại tốt 74,8%, khá 20,6%, loại trung bình 4,0%, loại yếu 0,6%. Về học lực xếp loại giỏi 10,7%, loại khá 49,2%, loại trung bình 36,1%, loại yếu 3,9%, loại kém 0,1%. Kết quả kỳ thi THPT Quốc gia, số học sinh đỗ tốt nghiệp THPT là  8.785/9125 em dự thi, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp 96,27%.

     Về kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh: Năm học 2016 - 2017, toàn tỉnh có 2.960 học sinh lớp 9, lớp 11, lớp 12 dự thi 9 môn: Văn, Lịch sử, Địa lý, Toán, Vật lý, Hóa, Sinh học, Tiếng Anh và Tin học. Kết quả đã có 1.634 em đạt giải (trong đó, có 72 giải nhất, 255 giải nhì, 351 giải ba, 956 giải khuyến khích).

     Tổ chức cuộc thi học sinh giỏi “Giải Toán trên máy tính cầm tay” dành cho học sinh lớp 9 và lớp 12 cấp tỉnh năm học 2016 - 2017, đã có 258 thí sinh dự thi (cấp THCS: 134 em, cấp THPT: 124 em); kết quả: có 131 thí sinh đạt giải (9 giải Nhất, 18 giải Nhì, 31 giải Ba và 73 giải Khuyến khích).

     Tổ chức cuộc thi Giải Toán, Vật Lý qua mạng Internet cấp tỉnh. Kết quả, môn Toán Tiếng Việt: 120 em đạt giải/361 học sinh dự thi (6 giải Nhất, 21 giải Nhì, 36 giải Ba và 57 giải Khuyến khích); Toán Tiếng Anh: 76 em đạt giải/243 học sinh dự thi (2 giải Nhất, 3 giải Nhì, 30 giải Ba và 41 giải Khuyến khích); môn Vật Lý: 96 em đạt giải/269 học sinh dự thi (3 giải Nhất, 16 giải Nhì, 36 giải Ba và 41 giải Khuyến khích).

     Về kết quả thi học sinh giỏi cấp Quốc gia: có 36/58 học sinh dự thi đạt giải. Trong đó, Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp đã giành được 2 giải Nhất, 8 giải Nhì, 18 giải Ba và 8 giải Khuyến khích, nổi lên có ba học sinh là em Hầu Hải Phong đạt giải Nhất môn Sinh học, em Hoàng Thị Như Quỳnh đạt giải Nhất môn Địa lý và em Nguyễn Thế Quỳnh đạt giải Nhì môn Vật lý.

     Về kết quả thi học sinh giỏi Quốc tế: Kỳ thi Olympic Vật Lý châu Á lần thứ 18 năm 2017 được tổ chức tại Yakutsk, Cộng hòa Sakha, Liên bang Nga, em Nguyễn Thế Quỳnh học sinh Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp đã xuất sắc giành Huy chương Bạc với số điểm cao nhất trong số Huy chương Bạc của đoàn Việt Nam và được chọn là 1 trong 5 đại diện tiêu biểu Việt Nam tham gia kỳ thi Olympic Vật Lý thế giới được tổ chức từ ngày 17-24/7 tại In-đô-nê-xi-a. Kết quả, cả 5 em đều đoạt giải, với 4 huy chương vàng, 1 huy chương bạc; trong đó em Nguyễn Thế Quỳnh đã xuất sắc giành huy chương vàng. Nguyễn Thế Quỳnh là học sinh đầu tiên giành 2 huy chương vàng thế giới trong lịch sử Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình.

     b. Năm học 2017 - 2018

     - Giáo dục

     Năm học 2017 - 2018 toàn tỉnh có 590 trường. Trong đó có 182 trường và cơ sở giáo dục mầm non; 209 trường tiểu học; 147 trường trung học cơ sở; 19 trường phổ thông cơ sở; 6 trường phổ thông trung học và 27 trường trung học phổ thông. Tổng số phòng học các cấp học mầm non và phổ thông 7.205 (trong đó, có 5.146 phòng kiên cố, tỷ lệ 71,4%; 1.940 phòng bán kiên cố, tỷ lệ 26,9%). Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên cấp học mầm non và phổ thông có: 19.435 người (cán bộ quản lý: 1.472 người, giáo viên 14.055 người và nhân viên 3.908 người). Quy mô học sinh đầu năm học các cấp học mầm non và phổ thông, toàn tỉnh có 219.791 học sinh; trong đó, giáo dục mầm non 61.620 cháu; tiểu học 73.754 học sinh; trung học cơ sở 54.647 học sinh; trung học phổ thông 29.770 học sinh.

     Để giảm bớt khó khăn cho học sinh, phụ huynh học sinh vào đầu năm học mới; Sở Giáo dục và Đào tạo đã có công văn số 1832/SGDĐT-KHTC đề nghị UBND các huyện, thị xã, thành phố, hiệu trưởng các đơn vị trực thuộc Sở triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định hiện hành về việc thu nộp các khoản đầu năm học. Đồng thời, Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi trong các cơ sở giáo dục... 

     Công tác phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ và phổ cập THCS

     Về phổ cập giáo dục tiểu học: Theo báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo kết thúc năm học 2016-2017 đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 trở lên, trong đó, có 150/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (tỷ lệ 94,3%); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 trở lên, trong đó, có 7/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (tỷ lệ 87,5%). Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2.

     Về phổ cập giáo dục trung học cơ sở: Kết thúc năm học 2016 - 2017, đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên, trong đó, có 154/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 96,9%); có 90/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 3 (tỷ lệ 56,6%); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên; trong đó, có 5/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 62,5%) và thành phố Đồng Hới đạt chuẩn mức độ 3. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1.

     Về xóa mù chữ: Đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1 trở lên, trong đó, có 156/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 (tỷ lệ 98,11%); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1 trở lên, trong đó, có 7/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 (tỷ lệ 87,5%). Tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.

     Về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi: Kết thúc năm học 2016 - 2017, đã có 158/159 xã, phường, thị trấn (đạt tỷ lệ 99,4%) và 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.

     Về công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia: Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm chỉ đạo, thực hiện lồng ghép xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia gắn với tiêu chí nông thôn mới và xây dựng trường học thân thiện; đã tiến hành kiểm tra công nhận mới: 24 trường (4 trường mầm non, 12 trường tiểu học và 8 trường trung học cơ sở) đưa tổng số trường mầm non, phổ thông được công nhận đạt chuẩn Quốc gia lên 325/589 trường, đạt tỷ lệ 55,2% (trong đó, có 67/180 tr­ường mầm non, đạt tỷ lệ 37,2%; 168/211 trường tiểu học, đạt tỉ lệ 79,6%; 77/165 tr­ường trung học cơ sở, đạt tỉ lệ 46,67% và 13/33 trường trung học phổ thông và trường phổ thông trung học, đạt tỉ lệ 39,39%).

     - Đào tạo

     Năm học 2017 - 2018 trường Đại học Quảng Bình với chỉ tiêu tuyển sinh là 2.090 chỉ tiêu, bao gồm 1.330 chỉ tiêu đại học và 300 cao đẳng sư phạm và 460 chỉ tiêu cao đẳng ngoài sư phạm; thời gian xét tuyển được trình tự theo kế hoạch hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo. Qua các đợt xét tuyển từ kết quả của kỳ thi Quốc gia, Trường Đại học Quảng Bình đã tuyển mới và nhập học tại trường là 833 sinh viên; trong đó: hệ đại học 412 sinh viên, hệ cao đẳng 110 sinh viên, hệ liên thông 291 sinh viên và học văn bằng hai hệ đại học là 20 sinh viên.

     Các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và các trường Trung cấp chuyên nghiệp tiếp tục ổn định và phát triển, mở rộng quy mô các loại hình đào tạo, phát triển thêm một số ngành nghề đào tạo mới, đáp ứng nhu cầu học tập nghề nghiệp của con em nhân dân. Tiếp tục triển khai nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo theo nhu cầu của xã hội; tích cực đổi mới chương trình đào tạo, giáo trình, phương pháp dạy học để sinh viên có thể đạt chuẩn đầu ra khi tốt nghiệp.

     2. Công tác y tế

     Đến nay, toàn tỉnh hiện có 159/159 xã/phường/thị trấn có trạm y tế; 100% trạm y tế xã, phường có bác sỹ làm việc; 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động được trả phụ cấp ổn định; 100% trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh; đến nay, toàn tỉnh đã có 137/159 (đạt tỷ lệ 86,16%) trạm y tế xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế.

     Về hoạt động, nhìn chung các trạm y tế đã tuân thủ thực hiện các chế độ chuyên môn theo quy định trong khám chữa bệnh, triển khai có hiệu quả các chương trình y tế tại cộng đồng. Đội ngũ nhân viên y tế thôn bản được quản lý và phát huy hiệu quả công tác, hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn đạt cao; công tác giám sát dịch bệnh thực hiện chặt chẽ, đặc biệt là sốt rét, sốt xuất huyết và các dịch bệnh đường tiêu hoá. Theo báo cáo của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, trong tháng 10/2017, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 3 trường hợp Tay - chân - miệng; 282 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 455 trường hợp tiêu chảy; 38 trường hợp lỵ trực trùng; 10 trường hợp lỵ a míp; 1 trường hợp viêm gan vi rút B; 8 trường hợp viêm gan vi rút khác; 16 trường hợp thủy đậu; 92 trường hợp quai bị; 1.488 trường hợp cúm; 1 trường hợp viêm gan vi rút C. Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 31/10/2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 34 trường hợp Tay - chân - miệng; 577 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 3.909 trường hợp tiêu chảy; 292 trường hợp lỵ trực trùng; 129 trường hợp lỵ a míp; 18 trường hợp viêm gan vi rút B; 58 trường hợp viêm gan vi rút khác; 620 trường hợp thủy đậu; 979 trường hợp quai bị; 11.897 trường hợp cúm; 17 trường hợp Lao phổi; 1 trường hợp Bạch hầu; 1 trường hợp Ho gà; 1 trường hợp sởi; 1 trường uốn ván; 2 trường hợp viêm não vi rút khác; 1 trường hợp uốn ván sơ sinh; 3 trường hợp viêm gan vi rút C. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra.

     Các đơn vị đã tổ chức giám sát kịp thời tình hình sốt rét gia tăng trên địa bàn, thực hiện tốt công tác phun tẩm hóa chất phòng chống véc tơ ở các địa bàn trọng điểm. Tình hình sốt rét toàn tỉnh trong tháng 10/2017, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 206 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 26 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 10.944 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,16%. Từ đầu năm đến hết tháng 10/2017, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 3.446 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 145 người, trong đó có 2 bệnh nhân sốt rét ác tính (SRAT) và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét. Tiến hành xét nghiệm lam và test cho 54.485 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,31%.

     Tiếp tục thực hiện các hoạt động tư vấn, hướng dẫn các hành vi an toàn phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS nhằm hạn chế sự lây nhiễm từ các nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng. Từ đầu năm đến 31/10/2017 trên địa bàn tỉnh phát hiện 46 người nhiễm mới HIV, 21 người chuyển sang AIDS, 4 người tử vong do AIDS; số mẫu xét nghiệm HIV là 9.620 mẫu. Tính đến ngày 31/10/2017, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.346 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 383 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 134 người; số mẫu xét nghiệm HIV cộng dồn là 17.318 mẫu. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục duy trì các hoạt động của cơ sở điều trị Methadone của Trung tâm có hiệu quả. Tổ chức tư vấn, giáo dục nhóm và khám sàng lọc cho các bệnh nhân tham gia đủ tiêu chuẩn điều trị Methadone.

     Từ đầu năm đến nay, ngành Y tế Quảng Bình đã tích cực tiến hành kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm 8 huyện/thị xã/thành phố. Cụ thể: Tuyến tỉnh, đã tổ chức thanh kiểm tra về an toàn vệ sinh thực phẩm tại 348 cơ sở, kết quả đã có 46 cơ sở không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (tỷ lệ không đạt là 13,2%); Tuyến huyện, đã tổ chức thanh kiểm tra tại 4.303 cơ sở, kết quả đã có 944 cơ sở không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (tỷ lệ không đạt là 21,9%). Qua kiểm tra đã tiến hành tiêu hủy nhiều hàng hóa kém chất lượng, quá hạn sử dụng, hàng không rõ nguồn ngốc xuất xứ. Từ đầu năm đến nay đã xảy ra 1 vụ ngộ độc thực phẩm với 31 người nhập viện tại xã Hải Ninh (huyện Quảng Ninh) các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời nên không có tử vong xảy ra, ngoài ra còn có 402 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

     3. Hoạt động văn hóa

     - Các hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị và tổ chức lễ hội

     Đã tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn: Kỷ niệm 87 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2), đón tết Nguyên đán Đinh Dậu, 42 năm ngày thống nhất đất nước, 131 năm ngày Quốc tế Lao động, kỷ niệm 127 năm ngày sinh của Bác (Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Quảng Bình được tổ chức vào ngày 16/6/2017), 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ; 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Tết Độc lập 02/9. Đáng chú ý là sáng ngày 25/8/2017, tại thành phố Đồng Hới, Bộ Thông tin và Truyền thông, Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Quảng Bình tổ chức phát hành đặc biệt bộ tem bưu chính “Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013)”. Việc phát hành đặc biệt bộ tem không chỉ tưởng nhớ, tri ân và tôn vinh những công lao to lớn của Vị tướng của Nhân dân mà còn góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, hiểu biết thêm về lịch sử Việt Nam trong Nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

     Lễ đón nhận Bằng công nhận Hò Khoan Lệ Thủy là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia diễn ra vào lúc 20h15 ngày 31/8/2017 tại Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao huyện Lệ Thủy, được truyền hình trực tiếp trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Bình và hòa sóng với các đài trong khu vực...

     - Công tác hoạt động quản lý nhà nước

     Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa, Sở Văn hóa và Thể thao tiếp tục tham mưu, trình UBND tỉnh nhiều văn bản quan trọng trên các lĩnh vực văn hóa, thể thao và gia đình. Nổi bật là: Tích cực phối hợp với UBND huyện Minh Hóa tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng Đề án đặt tên đường thị trấn Quy Đạt, huyện Minh Hóa; Hoàn thiện Đề án Vườn hoa và Tượng đài Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tăng cường quản lý, đôn đốc việc xây dựng công trình Trung tâm Văn hóa tỉnh, Bảo tàng tổng hợp tỉnh. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xây dựng Quy hoạch Quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016 - 2025 tầm nhìn đến năm 2035 và Quy hoạch karaoke, vũ trường trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2045 trình UBND tỉnh phê duyệt.

     Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 09/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, chấn chỉnh hoạt động quảng cáo, từ đầu năm đến nay, Sở đã tổ chức 7 cuộc thanh tra, kiểm tra 108 đơn vị, cơ sở và đã xử phạt 25 triệu đồng đối với 9 cơ sở vi phạm. Nhờ đó, đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi văn hoá xấu, độc hại, làm cho môi trường văn hoá trên địa bàn tỉnh trong sạch, lành mạnh, các tổ chức hoạt động thể dục thể thao, các đơn vị hoạt động du lịch nâng cao ý thức trách nhiệm, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

     - Công tác phát triển các lĩnh vực chuyên ngành

     Đã đẩy mạnh công tác lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích; tăng cường và đẩy mạnh xã hội hóa công tác trùng tu, bảo vệ, khoanh vùng, cắm mốc và phát huy giá trị di tích; trình UBND tỉnh ra quyết định công nhận 2 di tích, nâng tổng số di tích hiện có trên địa bàn tỉnh lên 115 di tích, trong đó có 53 di tích quốc gia. Ngoài việc tiếp tục đẩy mạnh công tác lập hồ sơ, trùng tu tôn tạo, chống xuống cấp di tích; Ban Quản lý di tích tỉnh đã tổ chức Hội nghị đánh giá lại và bàn các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh.

     Hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp và nghệ thuật quần chúng ngày càng tiến bộ về chất lượng nghệ thuật và năng lực tổ chức, phục vụ kịp thời, có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào, chiến sĩ vùng sâu, vùng xa, biên giới. Nổi lên là, Trung tâm Văn hóa tỉnh đã tham gia Hội diễn nghệ thuật quần chúng “Câu hò nối những dòng sông” năm 2017 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Nghệ An tổ chức đạt Huy chương Bạc toàn đoàn và 01 HCV, 03 HCB tiết mục; Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Quảng Bình trong câu hát” tại Nhà hát lớn Hà Nội và 2 tiết mục chương trình khai mạc “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”. Chương trình nghệ thuật khai mạc Lễ hội Hang động Quảng Bình năm 2017 với chủ đề “Vương quốc hang động, kỳ vỹ - huyền thoại” và đón nhận các Danh hiệu kỷ lục thế giới diễn ra tại Quảng trường biển Bảo Ninh, thành phố Đồng Hới; tổ chức lễ tưởng niệm, tri ân 45 năm ngày hy sinh của 13 cán bộ, chiến sĩ thông tin Trạm cơ vụ A69, hang Lèn Hà, huyện Tuyên Hóa. Chương trình Trường Sơn Đông gọi Trường Sơn Tây với chủ đề "Về bến Long Đại" do Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Huế tổ chức, Chương trình được truyền hình trực tiếp trên VTV8 và Đài Truyền hình Quảng Bình; Chương trình "Linh thiêng Thành Cổ" do Hội Chiến sĩ Thành Cổ tổ chức tại Trường Đại học Quảng Bình… Đoàn Nghệ thuật truyền thống tỉnh đã tham gia nhiều tiết mục góp phần quan trọng vào sự thành công chung của các chương trình. Trong dịp Lễ kỷ niệm 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 02/9, UBND các huyện, thị xã, thành phố đã tổ chức liên hoan nghệ thuật quần chúng Công - Nông -  Binh.

     Hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan được duy trì thường xuyên; liên hoan thông tin lưu động tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới năm 2017, với 3 phần thi bao gồm văn nghệ, tiểu phẩm và xe tuyên truyền lưu động; liên hoan là dịp để các đội thông tin lưu động có cơ hội thể hiện, giao lưu, học hỏi những cách làm hay, mô hình hiệu quả trong thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Thiết thực chào mừng các ngày Lễ kỷ niệm, năm đội chiếu bóng miền núi đã tổ chức các đợt phim chào mừng; chủ đề của các đợt phim là những tác phẩm tiêu biểu của điện ảnh cách mạng Việt Nam và một số phim tài liệu và khoa học phục vụ tại các xã miền núi vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo trên địa bàn toàn tỉnh.

     - Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở

     Đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh tiếp tục được tổ chức với nhiều hình thức và nội dung phong phú, tạo không khí tươi mới, góp phần cổ vũ tinh thần nhân dân trong lao động, sản xuất. Nổi lên là “Tuần Văn hóa - Du lịch” thành phố Đồng Hới năm 2017 với nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao. Huyện Tuyên Hóa đã tổ chức liên hoan nghệ thuật quần chúng với sự tham gia của hàng trăm diễn viên Liên hoan nghệ thuật quần chúng với chủ đề “Quảng Bình ơn Bác”. Liên hoan các câu lạc bộ ca trù tỉnh Quảng Bình lần thứ ba, với sự tham gia của hơn 80 nghệ nhân, ca nương, kép đàn, trống chầu nòng cốt đến từ 7 câu lạc bộ ca trù của thị xã Ba Đồn và các huyện Quảng Trạch, Minh Hóa, Tuyên Hóa... Nhìn chung, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng người dân và du khách, góp phần tích cực vào đẩy mạnh phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ ở các địa phương, thông qua đó góp phần khôi phục và phát huy các giá trị văn hoá, tôn vinh những nét đẹp văn hoá truyền thống.

     Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tham gia hưởng ứng đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đảm bảo an ninh chính trị, phát huy truyền thống tương thân tương ái, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Các địa phương đã công nhận các danh hiệu văn hóa; trong đó, tỷ lệ hộ gia đình đạt danh hiệu văn hóa năm 2017 là 82,5%; số thôn, bản, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa 67%; số cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa là 73%.

     4. Hoạt động thể dục - thể thao

     Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại’’ có bước phát triển mới về chất lượng, góp phần đáng kể vào việc duy trì và nâng cao thể chất cho nhân dân. Số người luyện tập thể thao thường xuyên ước đạt 30,7%, tăng 0,3%, số gia đình thể thao ước đạt 25,2%, tăng 0,3% so với cùng kỳ. Số điểm tập luyện thể dục thể thao toàn tỉnh 2.450 điểm, tăng 4,0% so cùng kỳ. Các địa phương trên địa bàn tỉnh cũng đã triển tổ chức ngày chạy OLYMPIC vì sức khỏe toàn dân năm 2017; trong đó, có 146/159 xã, phường, thị trấn và 2 đơn vị tổ chức ngày chạy OLYMPIC thu hút gần 80 ngàn người tham gia. Đến nay, đã có 159/159 xã, phường đã tổ chức Đại hội thể dục thể thao, các hoạt động thi đấu thể thao như bóng chuyền, bóng đá, cầu lông, bóng bàn và các môn thể thao truyền thống nhân các ngày Lễ kỷ niệm được tổ chức hầu hết các địa phương trong tỉnh. Đáng chú ý là Lễ hội bơi, đua thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang năm 2017 đã thu hút 24 thuyền bơi nam, 08 thuyền đua nữ. Huyện Quảng Ninh đã tổ chức lễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Nhật Lệ năm 2017 với sự tham gia của 8 đội thuyền đua nữ và 12 đội thuyền đua nam. Đồng Hới đã tổ chức diễu hành và giải đua xe đạp Đại hội thể dục thể thao thành phố Đồng Hới lần thứ VIII năm 2017. UBND các huyện, thị xã, thành phố đều tổ chức các hoạt động thể thao trên địa bàn, đã lồng ghép tổ chức các bộ môn thi đấu thể thao trong chương trình Đại hội Thể dục thể thao cấp huyện, thị xã, thành phố tạo được không khí sôi nổi, vui tươi phấn khởi, kịp thời động viên các tầng lớp nhân dân nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

     Thể thao thành tích cao tỉnh Quảng Bình ngày càng có những bước tiến vững chắc trên đấu trường toàn quốc và quốc tế. Đáng chú ý là tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 29 (Sea Games 29); VĐV Nguyễn Huy Hoàng của Quảng Bình đã giành được HCV, đồng thời phá kỷ lục SEA Games ở nội dung 1.500 m tự do nam (kỷ lục cũ là 15 phút 31 giây 03, do Lâm Quang Nhật thiết lập tại Singapore); VĐV điền kinh Hoàng Thị Ngọc của Quảng Bình cùng đồng đội đã xuất sắc giành HCV nội dung 4x400 m nữ với thời gian 3 phút 33 giây 40; ở nội dung 4 x 200m tiếp sức tự do nam.

     Tính đến nay, các đội tuyển tham gia thi đấu các giải khu vực, toàn quốc và quốc tế đạt được 170 huy chương các loại (62 HCV, 49 HCB, 59 HCĐ), trong đó có 4 huy chương quốc tế (3 HCV và 3 HCB).

     5. Tình hình trật tự, an toàn giao thông

     - An toàn giao thông

     Luỹ kế 10 tháng đầu năm 2017, toàn tỉnh đã xảy ra 195 vụ tai nạn giao thông, giảm 11 vụ so với 10 tháng năm 2016, trong đó đường bộ 190 vụ; giảm 12 vụ; đường sắt 5 vụ, tăng 1 vụ so với cùng kỳ; đường thuỷ không xảy ra tai nạn. Số người chết do tai nạn giao thông 94 người, tăng 8 người so với cùng kỳ năm 2016, trong đó đường bộ chết 92 người, tăng 9 người; đường sắt chết 2 người, giảm 1 người; đường thuỷ không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 155 người, giảm 43 người so cùng kỳ năm 2016, trong đó đường bộ bị thương 154 người, giảm 41 người; đường sắt bị thương 1 người, giảm 2 người so với cùng kỳ năm 2016.

     - An toàn xã hội và pháp luật

     Lũy kế 10 tháng đầu năm 2017, phạm pháp kinh tế xảy ra 21 vụ với 24 đối tượng phạm tội; so với cùng kỳ năm 2016 số vụ giảm 10 vụ, đối tượng phạm tội giảm 9 người; phạm pháp hình sự 404 vụ với 523 đối tượng phạm tội, so cùng kỳ năm 2016 số vụ bằng cùng kỳ, đối tượng phạm tội giảm 141 người; buôn bán, vận chuyển ma túy bị phát hiện 41 vụ với 63 đối tượng vi phạm, so cùng kỳ năm 2016, số vụ giảm 9 vụ và đối tượng vi phạm giảm 10 người; sử dụng ma túy bị phát hiện 90 vụ với 137 đối tượng vi phạm, so cùng kỳ năm 2016 số vụ tăng 29 vụ và tăng 34 đối tượng vi phạm.

     6. Một số vấn đề xã hội

     Công tác đền ơn đáp nghĩa tiếp tục được duy trì. Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh 10 tháng đầu năm 2017 đã giải quyết các chế độ trợ cấp hàng tháng cho 373 trường hợp và trợ cấp một lần cho 4.832 trường hợp. Tổ chức tốt các hoạt động tri ân nhân dịp Tết nguyên đán và các ngày lễ lớn của đất nước, giải quyết kịp thời, đầy đủ, chính xác trợ cấp ưu đãi cho đối tượng người có công. Thăm, tặng quà động viên kịp thời, chăm lo tu sửa và tôn tạo các công trình ghi công liệt sỹ, tổ chức lễ viếng nghĩa trang liệt sỹ. Tặng 43.061 suất quà của Chủ tịch nước, UBND tỉnh, các địa phương cho các gia đình chính sách nhân dịp Tết Nguyên đán trị giá 7,525 tỷ đồng; tặng 58.750 suất quà nhân dịp Lễ kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ với tổng kinh phí 10,716 tỷ đồng; nâng cấp Nghĩa trang liệt sĩ Ba Dốc và thay mới 2.935 bia mộ; các cơ quan đơn vị hỗ trợ xây dựng 36 nhà tình nghĩa trị giá gần 1,4 tỷ đồng. Vận động Quỹ Đền ơn đáp nghĩa tỉnh, từ đầu năm đến nay đã có 134 đơn vị ủng hộ với số tiền 929,364 triệu đồng. Thực hiện điều dưỡng tập trung cho đối tượng người có công tại Trung tâm điều dưỡng luân phiên người có công tỉnh, trong 10 tháng đầu năm đã tổ chức 20 đợt điều dưỡng tập trung tại Trung tâm điều dưỡng luân phiên người có công Quảng Bình cho 1.998 người có công trên địa bàn tỉnh và 45 đối tượng người có công ngoài tỉnh./.

[Trở về]