THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 năm 2017 tỉnh Quảng Bình 
     Triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 toàn tỉnh đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức do hậu quả của sự cố môi trường biển và 2 trận lũ năm 2016. Do đó, ngay từ đầu năm tỉnh đã huy động toàn hệ thống chính trị tham gia, với quyết tâm cao để thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017. UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 của Chính phủ; Nghị quyết của HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2017.

     Các cấp uỷ Đảng, chính quyền đã tập trung chỉ đạo với nhiều giải pháp, trọng tâm là sớm hoàn thành công tác đền bù thiệt hại do sự cố môi trường biển; tuyên truyền, vận động ngư dân tham gia đánh bắt ở các vùng biển xa; tăng cường các biện pháp để ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; triển khai hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch; tiếp tục kêu gọi, thu hút đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội.

     Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp đề ra, đến nay tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cây trồng hàng năm được mùa, sản lượng lương thực đạt cao nhất từ trước đến nay; sản xuất lâm nghiệp phát triển theo hướng đẩy mạnh khai thác gỗ rừng trồng; khai thác thuỷ sản đã cơ bản ổn định, sản lượng thuỷ sản khai thác tăng cao; hoạt động du lịch có nhiều khởi sắc, giá tiêu dùng được kiểm soát tốt, thu ngân sách đạt khá; đã hoàn thành đền bù giai đoạn 2 thiệt hại do sự cố môi trường biển. Kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2017 như sau:

     I. KINH TẾ

     1. Nông, lâm nghiệp, thủy sản

     1.1. Nông nghiệp

     a. Trồng trọt

     Kết quả sản xuất Hè Thu: Tổng diện tích gieo trồng thực hiện 31.215,2 ha, so vụ Hè Thu năm trước tăng 0,8%.

     Cây lúa thực hiện 24.701 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 1,8%. Trong đó: Lúa tái sinh 8.498 ha, giảm 3,1%; lúa gieo cấy 16.203 ha, tăng 4,6%. Các loại cây trồng khác tiến độ gieo trồng chậm do nắng nóng kéo dài nên kết thúc vụ, diện tích gieo trồng không bằng vụ Hè Thu năm trước. Nhóm cây ngô và cây lương thực có hạt khác 829,1 ha, giảm 5,8%; nhóm cây lấy củ có chất bột 957,5 ha, giảm 2,5%; nhóm cây lấy sợi 5 ha; cây có hạt chứa dầu 763,3 ha, giảm 2,5%; nhóm cây rau, đậu, hoa cây cảnh 2.944,6 ha, giảm 2,9%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 35,7 ha; cây hàng năm khác 979 ha, giảm 2,7% so vụ Hè Thu năm trước.

     Năng suất lúa Hè Thu bình quân chung toàn tỉnh đạt 40,32 tạ/ha, so năm trước giảm 1,9%. Trong đó: Lúa tái sinh đạt 25,94 tạ/ha, tăng 0,2%; lúa gieo cấy đạt 49,29 tạ/ha, tương đương năm trước. Năng suất lúa Hè Thu giảm, nguyên nhân do tình hình sâu bệnh cục bộ ở một số địa phương và do hoàn lưu bão số 2, số 4 nên một số diện tích lúa bị ngập. Năng suất cây ngô đạt 37,58 tạ/ha, giảm 4,1%; cây khoai lang đạt 58,32 tạ/ha, giảm 9%; cây sắn đạt 183,42 tạ/ha, giảm 1,9%; cây lạc đạt 16,63 tạ/ha, tăng 1,8%; cây vừng đạt 6,98 tạ/ha, tăng 2,5%; cây rau các loại đạt 87,4 tạ/ha, tăng 1,9%; cây đậu các loại đạt 8,78 tạ/ha, tăng 7,0% so vụ Hè Thu năm trước.

     Dự ước sản lượng cây trồng: Sản lượng lúa đạt 99.605 tấn, giảm 0,1%; sản lượng ngô đạt 3.088,7 tấn, giảm 9,7%; sản lượng khoai lang đạt 4.164 tấn, giảm 11,7%; sản lượng sắn đạt 118.267 tấn, giảm 8,4%; sản lượng lạc, vừng tương đương năm trước; sản lượng rau các loại đạt 14.793 tấn, tăng 3,6% so với vụ Hè Thu năm trước.    

     Đến hết tháng 9/2017, sản xuất trồng trọt cơ bản kết thúc gieo trồng cây hàng năm. Dự ước một số chỉ tiêu trồng trọt năm 2017 như sau:

     - Diện tích: Dự ước diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh thực hiện 86.829 ha, giảm 0,2% so năm trước. Diện tích chia theo nhóm cây: Cây lúa 55.289,6 ha, tăng 0,7%; cây ngô và cây lương thực có hạt khác 4.951,8 ha, giảm 0,6%; cây lấy củ có chất bột 10.600,4 ha, giảm 5,8%; cây mía 123,6 ha, tăng 18,2%; cây thuốc lá, thuốc lào 3 ha; cây lấy sợi 10 ha, bằng 100%; cây có hạt chứa dầu 5.241,7 ha, tăng 0,2%; cây rau, đậu, hoa, cây cảnh 7.977,3 ha, tăng 1,4%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 474,5 ha, tăng 5,8%; cây hàng năm khác 2.182,7 ha, tăng 1,2% so với năm 2016.

     - Năng suất: Dự ước năng suất một số cây trồng chủ yếu năm 2017: Lúa đạt 51,51 tạ/ha, tăng 0,5%; ngô đạt 51,79 tạ/ha, tăng 0,7%; khoai lang đạt 73,33 tạ/ha, tăng 1,1%; sắn đạt 183,42 tạ/ha, giảm 1,9%; rau các loại đạt 108,89 tạ/ha, tăng 9,3%; đậu các loại đạt 8,94 tạ/ha, tăng 8,1%; lạc đạt 21,82 tạ/ha, tăng 3,9%; vừng đạt 6,65 tạ/ha, tăng 1,8% so năm trước.

     - Dự ước sản lượng lương thực cả năm 2017 đạt 310.154,0 tấn, so năm trước tăng 1,1% và vượt 9,2% kế hoạch. Trong đó, thóc 284.770,0 tấn, tăng 1,2% cùng kỳ và vượt 9,7% kế hoạch.

     Dự ước diện tích cây lâu năm thực hiện 24.100 ha, tăng 2,6% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Diện tích cây hồ tiêu 960,0 ha, tăng 2,1%; diện tích cao su 18.800 ha, tăng 0,4% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng các loại cây lâu năm thu hoạch xấp xỉ năm trước. Riêng sản lượng cao su tăng khá do giá bán sản phẩm mủ cao su có tăng lên. Sản lượng mủ cao su 9 tháng khai thác đạt 4.457 tấn, tăng 19,9%; sản lượng hạt tiêu đạt 615 tấn, tăng 0,8% so cùng kỳ năm trước.

     Nhìn chung, sản xuất cây hàng năm được mùa. Diện tích, năng suất và sản lượng một số cây trồng tăng khá so năm trước. Sản lượng lương thực tăng cao so năm trước và vượt kế hoạch đề ra. Diện tích cây lâu năm có xu hướng vừa tăng quy mô vừa thực hiện chuyển đổi cây trồng, theo đó một số cây có hiệu quả kinh tế cao hơn được phát triển nhanh

     b. Chăn nuôi

     Nhờ thực hiện tốt công tác kiểm soát dịch bệnh, chủ động triển khai tiêm vắc xin nên đã khống chế được dịch bệnh xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm. Theo đó, tổng đàn phát triển ổn định, chăn nuôi tập trung được mở rộng quy mô; bên cạnh các trang trại, các doanh nghiệp đang tích cực triển khai dự án chăn nuôi có chất lượng cao. Mặc dù có thời điểm giá bán thịt lợn giảm sâu, người nuôi lợn đầu tư cầm chừng, số đầu lợn giảm nhưng đánh giá cơ bản 9 tháng năm nay ngành chăn nuôi đạt nhiều kết quả tích cực, sản lượng xuất chuồng tăng khá.

     Dự ước đàn gia súc, gia cầm tại thời điểm 1/10/2017: Đàn trâu 37.300 con, tăng 0,2%; đàn bò 104.200 con, tăng 0,6%; đàn lợn 351.189 con, giảm 0,3%; đàn gia cầm 3.541 ngàn con, tăng 1,5% so cùng kỳ năm trước; riêng đàn gà 2.772 ngàn con, tăng 2,5% so cùng thời điểm năm trước.

      Mặc dù tổng đàn tăng không lớn nhưng do nuôi tập trung phát triển nhanh nên hệ số xuất chuồng tăng lên, theo đó sản lượng xuất chuồng tăng đáng kể so cùng kỳ năm trước. Dự ước sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng đạt 55.430 tấn, so cùng kỳ năm trước tăng 3,3%, cụ thể: Thịt trâu 1.560 tấn, tăng 6,5%; thịt bò 4.780 tấn, tăng 6,6%; thịt lợn 39.012 tấn, tăng 1,0%; thịt gia cầm 10.078 tấn, tăng 11,1%; riêng thịt gà 7.615 tấn, tăng 12,1% so cùng kỳ năm trước. 

     1.2. Lâm nghiệp

     Dự ước 9 tháng sản lượng gỗ khai thác 225.000 m3, tăng 7,1% so cùng kỳ năm trước, trong đó toàn bộ được khai thác từ rừng trồng; sản lượng củi khai thác 170.150 ste, tăng 0,8% so cùng kỳ năm trước; diện tích rừng trồng mới tập trung 828 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 1,1% (chủ yếu trồng các tháng đầu năm); diện tích rừng trồng được chăm sóc 15.000 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 3,4%; cây lâm nghiệp trồng phân tán 2.520 ngàn cây, so cùng kỳ năm trước tăng 4,8%.

     Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành thực sự quan tâm. Tuy nhiên, do nắng nóng kéo dài nên hiện tượng cháy rừng có xảy ra nhưng quy mô thiệt hại không đáng kể, chủ yếu một số diện tích rừng phòng hộ ven biển.

     1.3. Thủy sản

     Chín tháng năm 2017, năng lực đánh bắt hải sản được cải thiện đáng kể; sự cố môi trường biển cơ bản được khắc phục nên sản lượng khai thác tăng cao so cùng kỳ năm trước. Nuôi trồng thuỷ sản được đa dạng hóa sản phẩm nhằm khai thác hết tiềm năng và lợi thế; nuôi lồng bè phát triển trở lại; nuôi cá nước ngọt, nuôi cá kết hợp lúa được mở rộng. Công tác dự báo, phòng trừ dịch bệnh được tăng cường nên hạn chế được dịch bệnh trong nuôi thâm canh. Do đó 9 tháng năm 2017 sản lượng thuỷ sản tăng cao.

     Dự ước sản lượng thủy sản 9 tháng đạt 57.090,3 tấn, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Cá 45.216,3 tấn, tăng 19,1%; tôm 4.328,4 tấn, giảm 7,7%; thủy sản khác đạt 7.545,6 tấn, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước.

     a. Nuôi trồng

     Diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 5.747,0 ha, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu tăng diện tích nuôi thủy sản nước lợ trên diện tích ao, hồ bỏ hoang năm trước do sự cố môi trường biển.

     Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng ước đạt 9.500,8 tấn, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Cá 5.691,5 tấn, tăng 2,0%; tôm 3.523,2 tấn, giảm 12,0%; thủy sản khác 286,1 tấn, giảm 11,8%. Sản lượng nuôi trồng giảm là do các hộ thả giống muộn so thời vụ; trong quý III/2017 có xảy ra dịch đốm trắng ở tôm thẻ chân trắng; bão số 2 gây mưa lớn đã làm cho một số cá nuôi lồng bị sốc nước chết.

     b. Khai thác

     Sau sự cố môi trường biển, đến nay khai thác hải sản ở các địa phương đã cơ bản ổn định. Với sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, đặc biệt là chính sách hỗ trợ theo Nghị định 67 của Chính phủ; kinh phí đền bù thiệt hại môi trường biển đã được chi trả và các yếu tố khác đã tạo thuận lợi về nguồn vốn cho các hộ ngư dân thực hiện đóng mới và cải hoán nhiều tàu, thuyền nên năng lực khai thác hải sản năm 2017 tăng mạnh. Đến cuối tháng 9, dự ước số lượng tàu, thuyền khai thác hải sản có động cơ 5.087 chiếc, tăng 25,8% so cùng kỳ. Trong đó: Số lượng tàu có công suất từ 90 CV trở lên có 1.371 chiếc, tăng 16,9%; số tàu công suất dưới 90 CV có 3.716 chiếc, tăng 29,5%.

     Năng lực đánh bắt tăng và thời tiết thuận lợi nên sản lượng thủy sản khai thác tăng cao so cùng kỳ năm trước. Dự ước 9 tháng sản lượng khai thác đạt 47.589,5 tấn, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Cá 39.524,8 tấn, tăng 22%; tôm 805,2 tấn, tăng 17,4%; thủy sản khác 7.259,5 tấn, tăng 17,2%. Riêng khai thác biển ước đạt 45.398,5 tấn, tăng 21,9% (so với 9 tháng 2015 tăng 5,3%). Trong đó, cá biển các loại 38.275,7 tấn, tăng 22,6%; tôm biển các loại 550,6 tấn, tăng 22,3%; thủy sản biển khác 6.572,2 tấn, tăng 18,3% so cùng kỳ.

     1.4. Trang trại

     Nhiều năm trở lại đây, kinh tế trang trại, gia trại đã và đang có xu hướng phát triển khá nhanh về số lượng và quy mô trang trại. Tại thời điểm 01/7/2017, toàn tỉnh có 725 trang trại, so cùng kỳ năm trước tăng 19 trang trại. Chia ra: Trang trại trồng trọt có 13 trang trại, bằng cùng kỳ năm trước; trang trại chăn nuôi có 213 trang trại, giảm 6 trang trại; trang trại lâm nghiệp có 13 trang trại, bằng cùng kỳ năm trước; trang trại nuôi trồng thủy sản có 47 trang trại, tăng 1 trang trại; trang trại tổng hợp có 439 trang trại, tăng 24 trang trại.

     Các địa phương có số lượng trang trại tăng là Lệ Thủy tăng 4 trang trại, Ba Đồn tăng 2 trang trại, Quảng Trạch tăng 3 trang trại, Đồng Hới tăng 2 trang trại, tăng chủ yếu là loại hình trang trại tổng hợp, giảm loại hình trang trại chăn nuôi. Nguyên nhân trang trại chăn nuôi giảm là do giá thịt hơi gia súc, gia cầm giảm sâu, theo đó giá trị chăn nuôi không đạt tiêu chí nên chuyển sang trang trại tổng hợp.

     Lao động thường xuyên của trang trại hiện có 2.121 lao động, bình quân 1 trang trại có 2,9 lao động. Trong đó, chủ hộ trang trại có 1.435 lao động, chiếm 67,7% trong tổng số lao động của trang trại. Diện tích đất đang sử dụng của trang trại có 4.084,5 ha, tăng 2,2% so cùng kỳ. Chia ra: Đất sản xuất nông nghiệp 1.942,5 ha (Trong đó: Đất trồng cây hàng năm 633,5 ha, đất trồng cây lâu năm 1.309,0 ha), tăng 1,5%; đất lâm nghiệp 1.670,3 ha, tăng 2,7%; đất nuôi trồng thủy sản 424,4 ha, tăng 3,9%; đất khác 47,3 ha, bằng 96,1% so cùng kỳ năm trước.

     Phát triển kinh tế trang trại là hướng đi đúng đắn và đang được phát triển khá nhanh nhằm khai thác các lợi thế về điều kiện tự nhiên, khả năng về lao động sẵn có tại địa phương. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có số lượng gia trại khá lớn và đang được chú trọng mở rộng quy mô từng bước phát triển thành kinh tế trang trại. Khả năng trong những năm tới, số lượng trang trại sẽ tăng nhanh nếu có sự quan tâm hơn nữa của lãnh đạo Đảng và Chính quyền các cấp.

     Trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 9 tháng năm 2017, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở một số địa phương có những hạn chế nhất định: Quy hoạch bố trí cây trồng còn lúng túng, thiếu bền vững; công tác dịch vụ cho sản xuất ở một số khâu chưa chủ động, đặc biệt là hệ thống tưới tiêu các nơi xa nguồn nước; sản xuất một số sản phẩm mũi nhọn, có chất lượng cao còn thiếu nên sức cạnh tranh trên thị trường chưa đủ mạnh; tiêu thụ hàng nông sản vẫn còn khó khăn nhất là thị trường và giá cả không ổn định; dịch vụ con giống nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là tôm) chưa cung cấp đủ cho nhu cầu người nuôi trên địa bàn, phải nhập từ các địa phương khác nên tình trạng dịch bệnh tôm xảy ra ở một vài nơi.

     2. Công nghiệp

     * Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

     Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9 năm 2017 dự ước tăng 4,8% so với tháng trước và tăng 7,4% so với tháng 9 năm 2016. Tính chung 9 tháng năm 2017 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,3% so với cùng kỳ, trong đó: ngành khai khoáng tăng 6,7%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,3%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 4,0%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,8%.

     Chỉ số sản xuất công nghiệp ước thực hiện 9 tháng năm 2017 của một số ngành công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như sau: Ngành sản xuất trang phục tăng 13,9%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 11,9%; ngành khai khoáng khác tăng 6,2%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 5,7%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 4,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,9%; xử lý và cung cấp nước tăng 3,8%; ngành in, sao chép bản ghi các loại tăng 3,5%; ngành sản xuất đồ uống tăng 2,4%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,8%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 1,5%;...

     * Giá trị sản xuất công nghiệp

     Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 9 tháng năm 2017 ước đạt 7.811,1 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: kinh tế Nhà nước ước đạt 592,5 tỷ đồng, tăng 6,2%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 7.204,8 tỷ đồng, tăng 7,2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 13,8 tỷ đồng, tăng 34,3%.

     Chia theo ngành kinh tế: Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2017 của ngành khai khoáng ước đạt 316,8 tỷ đồng, tăng 7,6%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước đạt 7.296,0 tỷ đồng, tăng 7,2%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt ước đạt 139,6 tỷ đồng, tăng 5,3%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải ước đạt 58,7 tỷ đồng, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

     * Sản phẩm công nghiệp chủ yếu

     Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước thực hiện 9 tháng năm 2017 so với cùng kỳ như sau: Đá xây dựng đạt 2,5 triệu m3, tăng 6,2%; mực đông lạnh đạt 529 tấn, giảm 9,7%; Tinh bột sắn đạt 9,2 nghìn tấn, tăng 6,0%; Bia đóng chai đạt 15,4 triệu lít, tăng 2,4%; Áo sơ mi đạt 8,0 triệu cái, tăng 13,9%; Gạch lát nền đạt 3,3 triệu viên, giảm 32,2% (do trong tháng 01 và tháng 02/2017 Công ty cổ phần Gốm sứ và xây dựng Cosevco ngừng sản xuất để bảo trì máy móc, thiết bị); Gạch xây dựng đạt 163,4 triệu viên, tăng 2,1%; Clinker thành phẩm đạt 2,4 triệu tấn, tăng 9,8%; Xi măng đạt 1,2 triệu tấn, tăng 4,2%; Điện thương phẩm đạt 590 triệu Kwh, tăng 3,9%; Nước máy sản xuất đạt 6,1 triệu m3, tăng 3,8% so cùng kỳ năm trước;…

     3. Vốn đầu tư

     Khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 9 năm 2017 ước thực hiện 384,5 tỷ đồng, tăng 11,7% so với tháng trước và tăng 10,1% so với tháng cùng kỳ.

     Khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2017 ước thực hiện 2.677,9 tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, vốn ngân sách trung ương quản lý ước thực hiện 674,5 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương quản lý ước thực hiện 2.003,4 tỷ đồng. Vốn đầu tư Nhà nước quản lý phân theo một số ngành kinh tế như sau: Ngành nông lâm nghiệp, thủy sản ước thực hiện 255,8 tỷ đồng, tăng 2,9%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước thực hiện 112,3 tỷ đồng, tăng 2,3%; ngành vận tải kho bãi ước thực hiện 1.509,4 tỷ đồng, tăng 10,3%; ngành an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước ước thực hiện 208,8 tỷ đồng, tăng 11,7%; ngành giáo dục và đào tạo ước thực hiện 139,1 tỷ đồng, tăng 3,4%; ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội ước thực hiện 128,1 tỷ đồng, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2016;…

     Chín tháng năm 2017, tiến độ thực hiện các công trình/dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh đúng kế hoạch, một số công trình/dự án có khối lượng vốn lớn từ nguồn vốn nhà nước trên địa bàn tỉnh như: Cầu Nhật Lệ 2; Trung tâm Văn hóa tỉnh; Trụ sở Huyện ủy và Khối mặt trận huyện Quảng Trạch; Hạ tầng kỹ thuật Khu trung tâm cửa khẩu Quốc tế Cha Lo; Kè cửa sông Nhật Lệ; Củng cố nâng cấp tuyến đê kè Tả sông Gianh; Cảng cá Ròon, huyện Quảng Trạch; Dự án sửa chữa, gia cố hệ thống đê, kè, hồ, đập, công trình thủy lợi;... Trong đó, Cầu Nhật Lệ 2 công trình trọng điểm của tỉnh đưa vào sử dụng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, hơn nữa công trình có kiến trúc hiện đại sẽ là điểm nhấn tạo mỹ quan đô thị, mở ra cơ hội cho vùng bán đảo Bảo Ninh trở thành điểm phát triển du lịch, dịch vụ trong tương lai.

     4. Thương mại, dịch vụ

     a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

     Tháng 9, hoạt động bán lẻ hàng hoá trên địa bàn có xu hướng tăng lên so với những tháng trước do nhu cầu mua sắm của người dân tăng lên, các cơ sở bán lẻ, siêu thị thực hiện nhiều hoạt động khuyến mãi, giảm giá kích thích tiêu dùng trong dịp lễ 2/9. Dự ước tháng 9 tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 1.521,2 tỷ đồng, tăng 2,1% so tháng trước và tăng 8,0% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 13.395,4 tỷ đồng, tăng 8,7% so cùng kỳ.

     Tổng mức bán lẻ háng hoá 9 tháng phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế Nhà nước, doanh thu ước đạt 620,8 tỷ đồng, tăng 19,3% so cùng kỳ, nguyên nhân tăng do doanh thu Công ty Xăng dầu Quảng Bình tăng (giá xăng dầu biến động theo xu hướng tăng từ đầu năm đến nay); kinh tế tập thể, quy mô bán lẻ của kinh tế tập thể ngày càng thu hẹp, dự ước doanh thu 9 tháng đạt 8,3 tỷ đồng, giảm 22,5% so cùng kỳ; kinh tế cá thể, dự ước doanh thu 9 tháng đạt 7.741,2 tỷ đồng, tăng 8,6% so cùng kỳ, đây là thành phần chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng mức bán lẻ (57,8%); kinh tế tư nhân, doanh thu 9 tháng ước đạt 5.025,1 tỷ đồng, tăng 7,8% so cùng kỳ.

     Phân theo nhóm ngành hàng: Trong 9 tháng, tất cả các nhóm hàng đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó nhóm ô tô các loại tăng 136,7% (nguyên nhân do số lượng ô tô bán ra của các đại lý tăng cao), nhóm đá quý, kim loại quý tăng 22,4%, nhóm nhiên liệu khác tăng 15%, nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 10,8%, nhóm lương thực, thực phẩm tăng 11,2%;...

     b. Lưu trú, ăn uống và du lịch

     Vượt qua những khó khăn sau sự cố ô nhiễm môi trường biển, du lịch Quảng Bình từ đầu năm đến nay có sự phục hồi đáng kể, lượt khách, doanh thu dịch vụ lưu trú, lữ hành tăng cao so với cùng kỳ. Để đạt được kết quả này, trong thời gian qua, Sở Du lịch đã phối hợp với các sở ban, ngành, doanh nghiệp lữ hành đã tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá trên các phương tiện truyền thông trong và ngoài nước, trong đó đăng tải trên trang điện tử du lịch lớn nhất thế giới và website du lịch Quảng Bình bằng tiếng Anh…; tăng cường mở rộng liên kết các tuyến du lịch giữa các tỉnh phía Bắc và Nam Trung bộ, mở thêm các đường bay mới Đồng Hới - Hải Phòng, Đồng Hới - Chiềng Mai (Thái Lan).

     Tổ chức các hoạt động, sự kiện như: Chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”; chương trình “Thử thách Tú Làn 2017”; Lễ hội hang động Quảng Bình năm 2017 với chủ đề “Vương quốc hang động - kỳ vĩ và huyền thoại” nhằm quảng bá, giới thiệu du lịch Quảng Bình. Cùng với đó, giải bóng chuyền bãi biển các đội mạnh toàn quốc; Tuần lễ Văn hóa - Du lịch thành phố Đồng Hới từ ngày 25 - 30/4 với nhiều hoạt động phong phú, hấp dẫn và đa dạng; tổ chức Lễ hội đua thuyền truyền thống… Qua đó, tạo được sức thu hút đối với khách du lịch.

     - Dịch vụ lưu trú

     Hoạt động lưu trú và ăn uống tháng 9 giảm so tháng trước theo chu kỳ của mùa vụ du lịch tại địa phương. Dự ước tháng 9 doanh thu lưu trú đạt 9,2 tỷ đồng, giảm 15,5% so tháng trước và tăng 122,2% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng doanh thu ước đạt 88,3 tỷ đồng, tăng 41,6% so cùng kỳ.

     Số lượt khách lưu trú tháng 9 ước đạt 70.989 lượt khách, giảm 10,1% so tháng trước và tăng 129,6% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng ước đạt 541.075 lượt khách, tăng 41,5% so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế ước đạt 26.371 lượt khách, tăng 121% so với cùng kỳ.

     Ngày khách tháng 9 ước đạt 82.426 ngày khách, giảm 7,9% so tháng trước và tăng 150,8% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng ước đạt 606.665 ngày khách, tăng 44,4% so cùng kỳ.

     - Dịch vụ ăn uống

     Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 9 ước đạt 132,1 tỷ đồng, giảm 5,3% so tháng trước và tăng 28% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng doanh thu ước đạt 1.277,6 tỷ đồng, tăng 15,9% so cùng kỳ.

     - Dịch vụ lữ hành

     Tháng 9 hết mùa du lịch nên hoạt động du lịch giảm so với tháng trước. Bên cạnh đó, Công ty TNHH MTV Chua Me Đất (đơn vị khai thác hang Sơn Đoòng) ngừng hoạt động theo chu kỳ hang thở, nên doanh thu hoạt động lữ hành giảm mạnh.

     Dự ước tháng 9 doanh thu lữ hành ước đạt 13,2 tỷ đồng, giảm 50,7% so tháng trước và tăng 54,7% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng doanh thu ước đạt 193,8 tỷ đồng, tăng 24,1% so cùng kỳ.

Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 9 ước đạt 81.311 lượt khách, giảm 12,9% so tháng trước và tăng 70,2% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng ước đạt 688.137 lượt khách, tăng 23,6% so cùng kỳ.

Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 9 ước đạt 8.138, giảm 7,3% so tháng trước và tăng 63,0% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng ước đạt 79.253 lượt khách, tăng 29% so cùng kỳ.

     - Du lịch tâm linh

     Số lượt khách du lịch tâm linh tháng 9 năm 2017 ước đạt 181.000 lượt khách, giảm 15,4% so tháng trước. Tính chung 9 tháng năm 2017 ước đạt 1.803.824 lượt khách, tăng 58,8% so cùng kỳ.

     c. Hoạt động dịch vụ

     Dự ước tháng 9 doanh thu dịch vụ đạt 87,2 tỷ đồng, tăng 1,9% so tháng trước và tăng 10,8% so cùng kỳ. Tính chung 9 tháng doanh thu ước đạt 723,2 tỷ đồng, tăng 7,6% so cùng kỳ.

     Xét theo từng nhóm dịch vụ, mức tăng cụ thể của từng nhóm so với tháng trước như sau: Hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 1,8%; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 2,0%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 5,1% do bước vào năm học mới, nhu cầu học tại các trung tâm, các điểm trông giữ trẻ tăng cao; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 2,4%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 1,1%; dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 2,5%; hoạt động dịch vụ khác tăng 2,1%.

     d. Hoạt động vận tải

     Tháng 9/2017 thời điểm sinh viên, học sinh bắt đầu nhập học, cùng với đó là dịp nghỉ Lễ Quốc khánh 2/9, nhu cầu đi lại, tham quan, nghỉ dưỡng của người dân tăng cao, vì vậy các doanh nghiệp vận tải cũng như các hộ kinh doanh vận tải tập trung nguồn lực tăng chuyến, nhằm phục vụ việc đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân trong và ngoài tỉnh.

     Tổng doanh thu vận tải tháng 9/2017 ước đạt 261,5 tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước. Tính chung 9 tháng năm 2017 doanh thu vận tải ước đạt 2.171,5 tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 430,4 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.621,5 tỷ đồng, tăng 7,5% so với cùng kỳ; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 119,7 tỷ đồng, tăng 7,7%.

     Tổng số hành khách vận chuyển tháng 9/2017 ước đạt 2,0 triệu hành khách, tăng 2,6% so tháng trước; tính chung 9 tháng năm 2017 ước đạt 16,5 triệu hành khách, tăng 6,9% so với cùng kỳ.      Tổng số hành khách luân chuyển tháng 9 ước đạt 93,6 triệu hk.km, tăng 1,9% so với tháng trước; tính chung 9 tháng năm 2017 ước đạt 764,8 triệu hk.km, tăng 7,2% so với cùng kỳ.

     Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 9/2017 ước đạt 1,8 triệu tấn, tăng 1,9% so với tháng trước; tính chung 9 tháng năm 2017 ước đạt 15,3 triệu tấn, tăng 6,7% so với cùng kỳ. Tổng khối lượng hàng hoá luân chuyển tháng 9 ước đạt 98,1 triệu tấn.km, tăng 1,6% so với tháng trước; tính chung 9 tháng năm ước đạt 819,4 triệu tấn.km, tăng 7,0% so với cùng kỳ.

     II. XÃ HỘI

     1. Giáo dục, đào tạo

     1.1. Giáo dục

     a. Năm học 2016 - 2017

     - Giáo dục mầm non

     Ngành đã có nhiều giải pháp tích cực trong việc chỉ đạo các đơn vị nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ, đặc biệt là chất lượng tổ chức bán trú ở các trường mầm non, hiện có 177/179 trường tổ chức bán trú (tỷ lệ 98,9%); 100% trẻ Nhà trẻ được ăn bán trú với nhiều hình thức; 96,1% trẻ Mẫu giáo được ăn bán trú. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm đáng kể, hiện còn 2,9% trẻ Nhà trẻ và 4,3% trẻ Mẫu giáo suy dinh dưỡng thể nhẹ cân; 3,7% trẻ Nhà trẻ và 4,5% trẻ Mẫu giáo suy dinh dưỡng thể thấp còi; 100% trẻ được theo dõi và khám sức khoẻ định kỳ, 100% trẻ được đảm bảo an toàn tuyệt đối về thể chất và tinh thần không có trẻ bị tai nạn thương tích, ngộ độc thực phẩm trong các trường mầm non; 100% trẻ được học 2 buổi/ngày.

     Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi: Kết thúc năm học 2016 - 2017, đã có 158/159 xã, phường, thị trấn (đạt tỷ lệ 99,4%) và 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.

     - Giáo dục phổ thông

     Cấp Tiểu học: Thực hiện nghiêm túc Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo quy định, bám sát Chuẩn kiến thức - kỹ năng và hướng dẫn điều chỉnh nội dung chương trình các môn học; thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học đối với giáo dục Tiểu học theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

     Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN), có 114 trường nhân rộng toàn phần với 24.622 học sinh/994 lớp, tất cả các trường còn lại thực hiện nhân rộng mức độ 1. Thực hiện có hiệu quả dạy học Tiếng Việt lớp 1- Công nghệ giáo dục với 12.360 học sinh/551 lớp. Chất lượng môn Tiếng Việt lớp 1 đạt cao, kĩ năng đọc, viết và các kĩ năng học tập được đánh giá tốt hơn so với chương trình hiện hành. Tiếp tục chỉ đạo dạy học theo Đề án ngoại ngữ quốc gia đến năm 2020 tại 215/228 trường có học sinh Tiểu học với 58.921 học sinh. Triển khai dạy học Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch ở tất cả các trường Tiểu học, bước đầu giáo viên đã thực hiện tốt, học sinh yêu thích môn học và có sản phẩm đạt yêu cầu, chất lượng cao.

     Ngành Giáo dục và Đào tạo tích cực chỉ đạo các trường Tiểu học thực hiện nghiêm túc việc đánh giá học sinh theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT và Văn bản hợp nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Qua 1 năm triển khai, việc đánh giá học sinh theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo cơ bản thực hiện có hiệu quả; giáo viên đứng lớp thực hiện khá tốt việc nhận xét đánh giá học sinh, thể hiện được mức độ về kiến thức, kĩ năng, năng lực, phẩm chất học sinh.

      Nhìn chung chất lượng dạy từng bước được nâng lên. Kết quả đánh giá năng lực: Tự phục vụ tự quản: 63,41% số em đạt loại tốt, 36,21% số em đạt và 0,38% số em cần cố gắng; Hợp tác: đạt tốt 61,68%, đạt 37,88%, cần cố gắng 0,44%; Tự học và giải quyết vấn đề: đạt tốt 59,54%, đạt 39,96% và cần cố gắng 0,50%.

     Phổ cập giáo dục tiểu học: Đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 trở lên, trong đó, có 150/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (tỷ lệ 93,7%); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 trở lên, trong đó, có 7/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (tỷ lệ 87,5%). Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2.

     Cấp trung học cơ sở (THCS): Kết quả xếp loại 2 mặt cấp THCS, về hạnh kiểm tỷ lệ học sinh được xếp loại tốt 78,27%, loại khá 19,59%, loại trung bình 2,08%, loại yếu 0,06%. Về học lực xếp loại giỏi 19,18%; loại khá 40,36%, loại trung bình 38,10%, loại yếu 2,33%, loại kém 0,03%. Số học sinh được công nhận tốt nghiệp cấp trung học cơ sở toàn tỉnh 12.266/12.318 học sinh dự xét, đạt tỷ lệ 99,57%.

     Phổ cập giáo dục THCS: Đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên, trong đó, có 154/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 96,8%); có 90/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 3 (tỷ lệ 56,6 %); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên; trong đó, có 5/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 62,50%) và thành phố Đồng Hới đạt chuẩn mức độ 3. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1.

     Cấp trung học phổ thông: Kết quả xếp loại về hạnh kiểm tỷ lệ học sinh được xếp loại tốt 74,8%, loại khá chiếm 20,6%; loại trung bình 4,0%, loại yếu 0,6%. Về học lực xếp loại giỏi 10,7%; loại khá 49,2%, loại trung bình 36,1%, loại yếu 3,9%, loại kém 0,1%. Kết quả kỳ thi THPT Quốc gia, số học sinh đỗ tốt nghiệp THPT là  8.785/9125 em dự thi, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp 96,27%.

     Về xóa mù chữ: Đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1 trở lên, trong đó, có 156/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 (tỷ lệ 98,11%); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1 trở lên, trong đó, có 7/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 (tỷ lệ 87,5%). Tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.

     Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm chỉ đạo, thực hiện lồng ghép xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia gắn với tiêu chí nông thôn mới và xây dựng trường học thân thiện; đã tiến hành kiểm tra công nhận mới: 24 trường (4 trường mầm non, 12 trường tiểu học và 8 trường trung học cơ sở) đưa tổng số trường mầm non, phổ thông được công nhận đạt chuẩn Quốc gia lên 325/589 trường, đạt tỷ lệ 55,2% (trong đó, có 67/180 tr­ường mầm non, đạt tỷ lệ 37,2%; 168/211 trường tiểu học, đạt tỉ lệ 79,6%; 77/165 tr­ường trung học cơ sở, đạt tỉ lệ 46,66% và 13/33 trường trung học phổ thông và trường phổ thông trung học, đạt tỉ lệ 39,39%).

     Kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh: Năm học 2016 - 2017, toàn tỉnh có 2.960 học sinh lớp 9, lớp 11, lớp 12 dự thi 9 môn: Văn, Lịch sử, Địa lý, Toán, Vật lý, Hóa, Sinh học, Tiếng Anh và Tin học. Kết quả đã có 1.634 em đạt giải (trong đó, có 72 giải nhất, 255 giải nhì, 351 giải ba, 956 giải khuyến khích).

     Tổ chức cuộc thi học sinh giỏi “Giải Toán trên máy tính cầm tay” dành cho học sinh lớp 9 và lớp 12 cấp tỉnh năm học 2016-2017, đã có 258 thí sinh dự thi (cấp THCS: 134 em, cấp THPT: 124 em); kết quả: có 131 thí sinh đạt giải (9 giải Nhất, 18 giải Nhì, 31 giải Ba và 73 giải Khuyến khích).

     Tổ chức cuộc thi Giải Toán, Vật Lý qua mạng Internet cấp tỉnh. Kết quả, môn Toán Tiếng Việt: 120 em đạt giải/361 học sinh dự thi (6 giải Nhất, 21 giải Nhì, 36 giải Ba và 57 giải Khuyến khích); Toán Tiếng Anh: 76 em đạt giải/243 học sinh dự thi (2 giải Nhất, 3 giải Nhì, 30 giải Ba và 41 giải Khuyến khích); môn Vật Lý: 96 em đạt giải/269 học sinh dự thi (3 giải Nhất, 16 giải Nhì, 36 giải Ba và 41 giải Khuyến khích).

     Kết quả thi học sinh giỏi cấp Quốc gia: Có 36/58 học sinh dự thi đạt giải. Trong đó, Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp đã giành được 2 giải Nhất, 8 giải Nhì, 18 giải Ba và 8 giải Khuyến khích, nổi lên có hai học sinh là em Hầu Hải Phong đạt giải Nhất môn Sinh học và em Hoàng Thị Như Quỳnh đạt giải Nhất môn Địa lý, em Nguyễn Thế Quỳnh đạt giải Nhì Quốc gia môn Vật lý.

     Kết quả thi học sinh giỏi Quốc tế: Kỳ thi Olympic Vật Lý châu Á lần thứ 18 năm 2017 được tổ chức tại Yakutsk, Cộng hòa Sakha, Liên bang Nga, em Nguyễn Thế Quỳnh học sinh Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp đã xuất sắc giành Huy chương Bạc với số điểm cao nhất trong số Huy chương Bạc của đoàn Việt Nam và được chọn là 1 trong 5 đại diện tiêu biểu Việt Nam tham gia kỳ thi Olympic Vật Lý thế giới được tổ chức từ ngày 17-24/7 tại Inđônêxia. Kết quả, Em Nguyễn Thế Quỳnh đã xuất sắc giành huy chương vàng. Nguyễn Thế Quỳnh là học sinh đầu tiên giành 2 huy chương vàng thế giới trong lịch sử Giáo dục - Đào tạo Quảng Bình.

      Kỳ thi THPT Quốc gia năm học 2016 - 2017: Theo công bố kết quả tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2017 của Sở Giáo dục và Đào tạo. Kỳ thi THPT Quốc gia năm 2017, toàn tỉnh có 9.125 thí sinh dự thi để lấy kết quả tốt nghiệp, trong đó có 8.782 thí sinh đỗ tốt nghiệp, đạt tỷ lệ 96,24%. Trong số 35 trường có thí sinh dự thi trên địa bàn toàn tỉnh, có 3 trường tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp đạt 100%, gồm: Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp, Trung tâm Giáo dục - Dạy nghề Lệ Thủy, Trường THCS và THPT Chu Văn An. 

     Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2017 - 2018: Năm học 2017 - 2018, các trường THPT trên toàn tỉnh đã tổ chức xét tuyển học sinh lớp 10 THPT; toàn tỉnh chỉ có Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp tổ chức thi tuyển.

     b. Công tác chuẩn bị năm học 2017 - 2018

     Bước vào năm 2017 - 2018, Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Để nâng cao chất lượng giáo dục, Sở sẽ giảm tải những cuộc thi tự nguyện nhằm tăng đầu tư cho chất lượng mũi nhọn, nâng cao chất lượng đội ngũ, chú trọng bồi dưỡng năng lực, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và giáo viên để thích ứng với đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học. Đề cao vai trò, trách nhiệm của các hiệu trưởng, giáo viên bậc học trong việc xây dựng nhà trường vững mạnh, tạo niềm tin cho nhân dân; huy động các nguồn lực bảo đảm các điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục.

     Sở Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu việc tổ chức các hoạt động đầu năm học phải phù hợp với điều kiện nhà trường, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, gắn với thực tế của địa phương; thực sự có tác dụng, hiệu quả đối với học sinh, đặc biệt là học sinh đầu cấp học, phải tạo được niềm tin, động lực học tập cho học sinh và không khí vui tươi, phấn khởi trong nhà trường; tránh việc tổ chức máy móc, qua loa hoặc nặng nề, hình thức, gây quá tải cho học sinh. Tất cả các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, giáo dục thường xuyên, phải xây dựng quy định về văn hóa nhà trường, xây dựng và thực hành quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường.

      Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các hoạt động bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên trong dịp hè. Đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra một số hoạt động đầu năm học như đón học sinh đầu cấp học; tổ chức hoạt động để học sinh đầu cấp học tìm hiểu về nhà trường, tìm hiểu về chương trình giáo dục, hướng dẫn tham gia một số hoạt động trong và ngoài nhà trường. Chuẩn bị tốt cho công tác khai giảng năm học mới; tiến hành giảng dạy ngay sau khi khai giảng. Sở đã tổ chức các đoàn công tác trực tiếp kiểm tra công tác chuẩn bị ngày khai giảng năm học mới tại các Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị trực thuộc. Nhìn chung, công tác chuẩn bị mọi cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cơ bản tại các trường, các đơn vị đã sẵn sàng. Các trường học trong toàn tỉnh Quảng Bình từ cấp học mầm non đến cấp phổ thông đã tổ chức tốt Lễ khai giảng năm học mới vào ngày 5/9/2017.

     1.2. Đào tạo

     Năm học 2017 - 2018 Trường Đại học Quảng Bình và các trường Trung học chuyên nghiệp toàn tỉnh đang thông báo tuyển sinh đào tạo theo nhu cầu xã hội, tập trung đào tạo theo quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Tăng cường hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu khoa học giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp thông qua việc việc ký kết hợp đồng đạo tạo, sử dụng nhân lực.

     Chỉ tiêu tuyển sinh của Trường Đại học Quảng Bình năm học 2017- 2018 là 2.090 chỉ tiêu; trong đó: 1.330 chỉ tiêu đại học và 300 cao đẳng sư phạm và 460 chỉ tiêu cao đẳng ngoài sư phạm. Theo thống kê sơ bộ đến thời điểm hiện tại, số lượng thí sinh trúng tuyển nguyện vọng 1 và nguyện vọng 2 hệ chính quy đến làm thủ tục nhập học tại Trường Đại học Quảng Bình là 448/668 thí sinh trúng tuyển, đạt 67,06%.

     2. Y tế

     - Y tế cơ sở

     Chín tháng năm 2017, ngành Y tế tích cực nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân, nhất là tuyến y tế cơ sở và địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo khó khăn. Đến nay, toàn tỉnh đã có 159/159 xã/phường/thị trấn có trạm y tế, trong đó đã có 137/159 xã/phường/thị trấn đạt tiêu chí Quốc gia về y tế (đạt tỷ lệ 86,16%); 100% trạm y tế xã, phường có bác sĩ làm việc, 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động và được trả phụ cấp ổn định; 100% trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh.

     - Hoạt động khám chữa bệnh

     Hoạt động khám chữa bệnh trong 9 tháng năm 2017, hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn về khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng tiến độ. Ước tính 9 tháng năm 2017 toàn tỉnh có 937.566 lần người được khám chữa bệnh; trong đó, tuyến tỉnh 109.271 lần người; tuyến huyện/thị xã/thành phố 372.748 lần người; tuyến xã/phường/thị trấn 455.547 lần người.

     Nhìn chung, công tác khám và chữa bệnh 9 tháng năm 2017 đạt kết quả khả quan, khám chữa bệnh đã thực hiện tốt các quy chế chuyên môn, quy trình kỹ thuật bệnh viện, đáp ứng nhu cầu khám, thu dung điều trị người bệnh, thực hiện y đức. Các cơ sở y tế đã phát huy hiệu quả máy móc, trang thiết bị hiện có như: máy nội soi, máy siêu âm, máy thở, máy xét nghiệm nhiều thông số; đảm bảo thường xuyên đủ thuốc có chất lượng cho người bệnh… nên cơ bản đã đảm bảo an toàn điều trị, nâng cao chất lượng chăm sóc điều dưỡng cho người bệnh.

     - Công tác phòng chống dịch bệnh

     Công tác giám sát dịch bệnh thực hiện chặt chẽ, đặc biệt là sốt xuất huyết và các dịch bệnh đường tiêu hoá. Sở Y tế đã chỉ đạo Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, Phòng Y tế, Trung tâm Y tế Dự phòng các huyện, thị xã, thành phố xây dựng phương án phòng, chống dịch tại địa phương; tăng cường hoạt động giám sát, phát hiện sớm các trường hợp mắc đầu tiên và chủ động bao vây dập tắt, không để xảy ra dịch lớn trên địa bàn, hạn chế đến mức thấp nhất số người mắc bệnh và tử vong;... Nhờ đó, tình hình dịch bệnh 8 tháng năm 2017 được hạn chế đáng kể. Theo báo cáo của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, luỹ kế từ đầu năm đến ngày 31/8/2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 141 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 27 trường hợp viêm gan vi rút khác;1 trường hợp Bạch hầu; 1 trường Ho gà; 1 trường hợp sởi; 1 trường uốn ván; 1 trường hợp viêm não vi rút. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra.

     - Chương trình phòng chống sốt rét

     Theo báo cáo của Trung tâm phòng chống Sốt rét - Nội tiết tỉnh, lũy kế từ đầu năm đến 31/8/2017, tổng số lượt người điều trị sốt rét toàn tỉnh là 2.799 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 81 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét. Tiến hành xét nghiệm lam và que thử cho 27.948 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam 0,2%.

     - Tình hình nhiễm HIV/AIDS 

     Từ đầu năm đến 31/8/2017 trên địa bàn tỉnh phát hiện 38 người nhiễm mới HIV, 11 người chuyển sang AIDS, 4 người tử vong do AIDS. Tính đến ngày 31/8/2017, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.338 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 373 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 134 người. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động về thông tin - giáo dục - truyền thông, can thiệp giảm tác hại và chương trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Duy trì các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục, chương trình an toàn truyền máu trong các dịch vụ y tế.

     - Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm

     Tám tháng năm 2017, ngành Y tế Quảng Bình đã chú trọng công tác truyền thông giáo dục nhằm thay đổi hành vi của người sản xuất và người tiêu dùng trong an toàn thực phẩm. Tổ chức tập huấn kiến thức an toàn thực phẩm cho chủ và nhân viên các nhà hàng, khách sạn, các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại các địa phương. Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo các cơ quan chức năng, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Qua kiểm tra đã xử lý nghiêm các hành vi vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến thực phẩm. Theo báo cáo của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh, lũy kế từ đầu năm đến nay đã xảy ra 1 vụ ngộ độc thực phẩm với 31 ca mắc tại xã Hải Ninh (huyện Quảng Ninh) các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời nên không có tử vong xảy ra, ngoài ra còn có 368 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

     3. Văn hoá, thông tin                             

     a. Công tác thông tin tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính trị

     Đã tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn: Kỷ niệm 87 năm  thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, đón Tết Nguyên đán Đinh Dậu, 42 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 131 năm ngày Quốc tế Lao động, kỷ niệm 127 năm ngày sinh của Bác (Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Quảng Bình được tổ chức vào ngày 16/6/2017), 70 năm Ngày Thương binh, liệt sỹ; 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Tết Độc lập 02/9.

     Ngày 25/8/2017, tại thành phố Đồng Hới, Bộ Thông tin và Truyền thông, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Quảng Bình tổ chức phát hành đặc biệt bộ tem bưu chính “Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013)”. Việc phát hành đặc biệt bộ tem không chỉ tưởng nhớ, tri ân và tôn vinh những công lao to lớn của Vị tướng của Nhân dân mà còn góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, hiểu biết thêm về lịch sử Việt Nam trong Nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

     Lễ đón nhận Bằng công nhận Hò khoan Lệ Thủy là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia diễn ra vào lúc 20h ngày 31/8/2017 tại Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao huyện Lệ Thủy, được truyền hình trực tiếp trên sóng VTV8 - Đài Truyền hình Việt Nam, VTC - Truyền hình Cáp Việt Nam, Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Bình và một số Đài Phát thanh - Truyền hình các tỉnh. Hò khoan Lệ Thủy là Di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của tỉnh Quảng Bình được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố trong Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Đây là dịp để tuyên truyền, quảng bá và khẳng định những giá trị độc đáo, đặc sắc của Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia Hò khoan Lệ Thủy.

     UBND thị xã Ba Đồn phối hợp cùng Bảo tàng Tổng hợp tỉnh tổ chức lễ khai mạc triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” tại Trung tâm Văn hóa - Thể thao thị xã Ba Đồn.

     b. Công tác quản lý nhà nước

     Trong chín tháng năm 2017, Sở Văn hóa và Thể thao tiếp tục tham mưu, trình UBND tỉnh nhiều văn bản quan trọng trên các lĩnh vực văn hóa, thể thao và gia đình. Nổi bật là: Tích cực phối hợp với UBND huyện Minh Hóa tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng Đề án đặt tên đường thị trấn Quy Đạt, huyện Minh Hóa; Hoàn thiện Đề án Vườn hoa, Tượng đài Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tăng cường quản lý, đôn đốc việc xây dựng công trình Trung tâm Văn hóa tỉnh, Bảo tàng tổng hợp tỉnh. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xây dựng Quy hoạch Quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và Quy hoạch karaoke, vũ trường trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2045 trình UBND tỉnh phê duyệt.

     Từ đầu năm đến nay, Sở đã tổ chức 7 cuộc thanh tra, kiểm tra 108 đơn vị, cơ sở và đã xử phạt 25 triệu đồng đối với 9 cơ sở vi phạm.

     4. Hoạt động thể dục, thể thao

     a. Thể thao quần chúng

     Phong trào thể dục, thể thao của tỉnh đã có những bước chuyển biến, góp phần đáng kể vào việc duy trì và nâng cao thể chất cho nhân dân. Đến nay, số người tập luyện thể thao thường xuyên ước đạt 30,6%, tăng 0,4% so với năm 2016, số gia đình thể thao ước đạt 25,1%, tăng 0,1% so với năm 2016. Các địa phương trên địa bàn tỉnh cũng đã triển tổ chức ngày chạy OLYMPIC vì sức khỏe toàn dân năm 2017; trong đó, có 146/159 xã, phường, thị trấn và 2 đơn vị tổ chức ngày chạy OLYMPIC thu hút gần 80 ngàn người tham gia. Đến nay, đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đã tổ chức Đại hội thể dục thể thao, các hoạt động thi đấu thể thao như bóng chuyền, bóng đá, cầu lông, bóng bàn và các môn thể thao truyền thống nhân các ngày Lễ kỷ niệm được tổ chức hầu hết các địa phương trong tỉnh. Trong dịp Lễ kỷ niệm 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, huyện Tuyên Hoá tổ chức khai mạc Đại hội TDTT lần thứ VIII; huyện Minh Hóa đã khai mạc Đại hội TDTT lần thứ VIII năm 2017.

     Đầu tháng 9 năm 2017, phong trào thể dục thể thao trên các địa bàn của tỉnh diễn ra khá sôi nổi. Đáng chú ý như:  Lễ hội bơi, đua thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang năm 2017 đã thu hút 24 thuyền bơi nam, 8 thuyền đua nữ của các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Lệ Thuỷ với sự góp mặt của hơn 1.000 vận động viên; huyện Quảng Ninh tổ chức Lễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Nhật Lệ năm 2017 với sự tham gia của 8 đội thuyền đua nữ và 12 đội thuyền đua nam, đến từ 12/15 xã, thị trấn của huyện; UBND xã Quảng Sơn (thị xã Ba Đồn) đã tổ chức giải đua thuyền truyền thống trên dòng sông Nan; thành phố Đồng Hới đã tổ chức diễu hành và giải đua xe đạp Đại hội thể dục thể thao thành phố Đồng Hới lần thứ VIII năm 2017, tham gia giải đua có 60 vận động viên của các xã, phường.

     Theo kế hoạch, Lễ khai mạc Đại hội thể dục thể thao toàn tỉnh lần thứ VIII sẽ được tổ chức vào ngày 10/9/2017 tại Nhà Thi đấu Công an tỉnh với các hoạt động như diễu hành biểu dương lực lượng, rước đuốc truyền thống, trao Cờ lưu niệm và đồng diễn võ thuật, khiêu vũ thể thao, nhảy aerobic;...

     b. Thể thao thành tích cao

     Tại Sea Games 29, VĐV Nguyễn Huy Hoàng của Quảng Bình đã giành được HCV, đồng thời phá kỷ lục SEA Games ở nội dung 1.500 m tự do nam; VĐV điền kinh Hoàng Thị Ngọc của Quảng Bình cùng đồng đội đã giành HCV nội dung 4x400 m nữ; nội dung 4 x 200m tiếp sức tự do nam, vận động viên Nguyễn Huy Hoàng cùng các vận động viên đội tuyển bơi Quốc gia đã giành được 1 HCB.

     Lũy kế từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao đã đạt được 133 HC các loại, trong đó có 50 HCV, 36 HCB và 47 HCĐ. Đặc biệt đã có 2 HCV và 1 HCB đạt được từ Sea Games 29.

     5. Tình hình trật tự an toàn xã hội

     a. An toàn giao thông

     Chín tháng năm 2017, các địa phương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền an toàn giao thông; tập trung phổ biến biện pháp hạn chế tai nạn xe mô tô, xe gắn máy ở khu vực nông thôn, biện pháp ngăn chặn tai nạn xe khách, đường đèo dốc, đắm đò; thực hiện nghiêm “Đã uống rượu, bia - không lái xe”; cảnh báo nguy cơ mất an toàn và ùn tắc giao thông; khuyến khích người dân sử dụng phương tiện giao thông công cộng. Mặt khác, đã đẩy mạnh công tác tuần tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông; vi phạm lòng, lề đường và hành lang an toàn giao thông;...

     Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng 8 năm 2017, toàn tỉnh đã xảy ra 21 vụ tai nạn giao thông, bằng tháng 8 năm 2016, trong đó đường bộ 20 vụ, giảm 1 vụ; đường sắt 1 vụ, tăng 1 vụ và đường thủy không xảy ra. Số người chết do tai nạn giao thông 9 người, giảm 2 người so với tháng 8 năm 2016, trong đó đường bộ chết 9 người, giảm 2 người. Số người bị thương do tai nạn giao thông 17 người, giảm 2 người so với tháng 8 năm 2016, trong đó đường bộ bị thương 17 người, giảm 2 người so với tháng 8 năm 2016.

     Luỹ kế 8 tháng năm 2017, toàn tỉnh đã xảy ra 161 vụ tai nạn giao thông, giảm 13 vụ so với 8 tháng năm 2016, trong đó đường bộ 157 vụ; giảm 13 vụ; đường sắt 4 vụ, bằng cùng kỳ; đường thuỷ không xảy ra tai nạn. Số người chết do tai nạn giao thông 80 người, tăng 3 người so với cùng kỳ năm 2016, trong đó đường bộ chết 78 người, tăng 4 người; đường sắt chết 2 người, giảm 1 người; đường thuỷ không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 125 người, giảm 19 người so cùng kỳ năm 2016, trong đó đường bộ bị thương 125 người, giảm 16 người; đường sắt, đường thủy không xảy ra, giảm 3 người so với cùng kỳ năm 2016.

     b. An toàn xã hội và pháp luật

     Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong tháng 8 năm 2017 phạm pháp kinh tế không xảy ra, so với tháng 8 năm 2016, số vụ giảm 4 vụ, đối tượng vi phạm giảm 4 người; phạm pháp hình sự 50 vụ với 48 đối tượng phạm tội (trong đó có 7 vụ chưa xác định được đối tượng gây án), so với tháng 8 năm 2016, số vụ tăng 17 vụ, đối tượng phạm tội giảm 4 người; buôn bán, vận chuyển ma túy bị phát hiện 4 vụ với 5 đối tượng vi phạm, so với tháng 8 năm 2016, số vụ tăng 1 vụ và đối tượng vi phạm tăng 1 người; sử dụng ma túy bị phát hiện 5 vụ với 13 đối tượng vi phạm; so với tháng 8 năm 2016, số vụ giảm 1 vụ và đối tượng vi phạm tăng 4 người.

     Lũy kế 8 tháng năm 2017, phạm pháp kinh tế xảy ra 21 vụ với 24 đối tượng phạm tội; so với cùng kỳ năm 2016 số vụ bằng cùng kỳ, đối tượng phạm tội tăng 1 người; phạm pháp hình sự 320 vụ với 436 đối tượng phạm tội, so cùng kỳ năm 2016 số vụ giảm 9 vụ, đối tượng phạm tội giảm 135 người; buôn bán, vận chuyển ma túy bị phát hiện 36 vụ với 55 đối tượng vi phạm, so cùng kỳ năm 2016, số vụ giảm 5 vụ và đối tượng vi phạm giảm 4 người; sử dụng ma túy bị phát hiện 88 vụ với 134 đối tượng vi phạm, so cùng kỳ năm 2016 số vụ tăng 35 vụ và tăng 46 đối tượng vi phạm.

     6. Một số vấn đề xã hội

     Theo báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, 9 tháng năm 2017 dự ước toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 27.616 lao động, đạt 78,9% kế hoạch năm; tư vấn về việc làm và xuất khẩu lao động cho hơn 4.265 lượt người; giới thiệu và cung ứng việc làm cho hơn 2.108 lao động.

     Tổ chức tặng 43.061 suất quà của Chủ tịch nước với tổng kinh phí hơn 7,525 tỷ đồng. Giải quyết trợ cấp hàng tháng cho 344 trường hợp, trợ cấp 1 lần cho 3.989 trường hợp, giải quyết công tác mộ - nghĩa trang liệt sỹ cho 197 trường hợp, giải quyết công tác quản lý hồ sơ người có công cho 6.376 trường hợp.

     Đã phân bổ 2.458,58 tấn gạo cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và thời kỳ giáp hạt. Tổ chức chúc thọ, mừng thọ cho 51 cụ tròn 100 tuổi và 917 cụ tròn 90 tuổi trong dịp Tết Nguyên đán. Duy trì và nhân rộng mô hình Dự án "Phát hiện sớm, can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật" tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2017 - 2030; chi trả trợ cấp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội thông qua hệ thống Bưu điện. Trung tâm Bảo trợ xã hội tiếp nhận 09 đối tượng vào nuôi dưỡng, nâng tổng số lên 43 người.

     Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đã hướng dẫn các địa phương quy trình rà soát, cập nhật dữ liệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ có người hưởng chính sách bảo trợ xã hội/trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng trên MIS qua video; tổng hợp số hộ nghèo đang ở nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn toàn tỉnh với 4.764 nhà. Tổng hợp, phân loại, lập danh sách hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều để thực hiện chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội.

     Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình trong 9 tháng năm 2017 đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận trong điều kiện còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển kinh tế - xã hội còn một số khó khăn: Ngành công nghiệp - xây dựng tăng trưởng thấp, sản xuất công nghiệp chưa có bước đột phá tạo động lực để các ngành kinh tế khác phát triển; chăn nuôi lợn gặp nhiều khó khăn; du lịch có khởi sắc, nhưng do chưa có nhiều dịch vụ vui chơi giải trí về đêm, các khu mua sắm nên hiệu quả chưa cao. Do đó, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, góp phần tích cực vào việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2016 - 2020, tỉnh cần thực hiện tốt những vấn đề sau:

     - Đẩy nhanh tiến độ thu hoạch sản phẩm vụ Hè Thu, nhằm hạn chế thiệt hại; chủ động phòng tránh thiên tai, đặc biệt chủ động ứng phó các tình huống lũ lụt, mưa bão; triển khai và đẩy nhanh tiến độ tiêm văc xin cho gia súc và gia cầm khi thời tiết chuyển mùa; triển khai đồng bộ công tác kiểm soát dịch bệnh trong chăn nuôi, đặc biệt là sản phẩm di chuyển từ các địa phương khác đến; chủ động triển khai công tác chuẩn bị và thực hiện trồng rừng theo kế hoạch đã giao; chú trọng công tác giống cho sản xuất vụ Đông Xuân năm 2018; bố trí cây trồng phải hợp lý theo điều kiện thực tế và đạt hiệu quả cao;

     - Tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Vận động ngư dân đóng tàu có công suất trên 90 CV để khai thác trên vùng biển xa bờ.  Giải quyết kịp thời các kiến nghị, khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo phát sinh sau khi chi trả tiền bồi thường. Có chính sách giãn nợ, khoanh nợ cho người chăn nuôi; đẩy mạnh trồng rừng kinh tế gắn với việc tìm kiếm thị trường ổn định và lâu dài cho sản phẩm rừng trồng; kiểm tra, sửa chữa, gia cố các công trình, đặc biệt là đảm bảo an toàn các hồ, đập trong mùa mưa bão; triển khai các biện pháp phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.

     -  Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp lớn trên địa bàn đã được phê duyệt chủ trương đầu tư;

     - Chú trọng đầu tư về cơ sở hạ tầng và nhân lực cho ngành du lịch; đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, trong đó đẩy mạnh phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và du lịch cộng đồng. Tiếp tục khuyến khích sử dụng các sản phẩm sản xuất trong tỉnh. Tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân về giữ gìn, bảo vệ môi trường, văn hóa ứng xử trong kinh doanh và an ninh trật tự ở các khu du lịch;

     -Triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện kế hoạch thu ngân sách nhà nước năm 2017 đạt và vượt kế hoạch; tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước, đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả; thực hiện các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thu nợ đọng thuế đối với các doanh nghiệp; 

     - Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân, tăng cường phòng chống các loại dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe người dân; đẩy mạnh kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm. Thực hiện tốt các chính sách về an sinh xã hội, nắm chắc tình hình đời sống nhân dân để hỗ trợ kịp thời, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đẩy mạnh công tác tuần tra nhằm ngăn chặn, giảm thiểu tai nạn giao thông và tăng cường các biện pháp giữ vững trật tự, an toàn xã hội./.

[Trở về]