THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 năm 2018 tỉnh Quảng Bình 
     Năm 2018 là năm bản lề thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020; năm có ý nghĩa rất quan trọng tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo. Theo dự báo, năm 2018 kinh tế Việt Nam duy trì mức tăng trưởng cao; cải cách thể chế và thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, giảm chi phí sản xuất kinh doanh được Chính phủ chỉ đạo quyết liệt sẽ phát huy hiệu quả… là yếu tố thuận lợi cơ bản để thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó, năm 2018 cũng được dự báo gặp không ít khó khăn, thách thức, như: việc cắt giảm thuế xuất nhập khẩu trong khối ASEAN đối với nhiều mặt hàng sẽ gây áp lực về giá cả và chất lượng sản phẩm trong nước, thiên tai khó lường, nhiều mặt hàng nông sản gặp khó khăn về thị trường; trong tỉnh, cơn bão số 10 năm trước còn để lại hậu quả nặng nề, sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước rất hạn chế...

     Để thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, UBND tỉnh đã có Quyết định số 81/QĐ-UBND về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết của Chính phủ và Nghị quyết HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2018. Bên cạnh đó, để các hoạt động sản xuất, kinh doanh không bị đình trệ sau Tết Nguyên đán Mậu Tuất, Chủ tịch UBND tỉnh đã có Công điện giao nhiệm vụ cần thực hiện ngay cho các sở, ban, ngành, địa phương, doanh nghiệp.

     Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp đề ra, đến nay tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã đạt những kết quả khả quan. Kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2018 như sau:

     - Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh - GRDP (giá so sánh 2010) đạt 11.222,1 tỷ đồng, tăng 6,29% so với cùng kỳ năm trước (kế hoạch năm 2018 tăng 7,0%); 

     - Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (giá so sánh 2010) đạt 4.320,6 tỷ đồng, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước (kế hoạch năm 2018 tăng 4,0%);

     - Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng (giá so sánh 2010) đạt 9.558,3 tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.      

     Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 5.538,2 tỷ đồng, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước (kế hoạch năm 2018 tăng 8,5%);

     - Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ (giá so sánh 2010) đạt 9.479,6 tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước (kế hoạch năm 2018 tăng 7,5%);

     - Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân đạt 207.152,0 tấn, tăng 0,2% so cùng kỳ năm trước và vượt 7,5% kế hoạch vụ Đông Xuân;

     - Sản lượng thủy sản đạt 34.145,2 tấn, tăng 12%  so với cùng kỳ năm trước và đạt 48,1% kế hoạch cả năm;

     - Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 8.246 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước.

     I. KINH  TẾ

     1. Tăng trưởng kinh tế

     Theo công bố của Tổng cục Thống kê, ước tính tổng sản phẩm (theo giá so sánh năm 2010) trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2018 đạt 11.222,1 tỷ đồng, tăng 6,29% so cùng kỳ năm 2017. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính đạt 2.170,3 tỷ đồng, tăng 4,21% so với cùng kỳ năm 2017, đóng góp 0,83 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng ước tính đạt 2.613,9 tỷ đồng, tăng 7,07% so với cùng kỳ năm 2017, đóng góp 1,64 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ ước tính đạt 6.102,6 tỷ đồng, tăng 6,74% so với cùng kỳ năm 2017, đóng góp 3,65 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước tính đạt 335,3 tỷ đồng, tăng 5,76% so với cùng kỳ năm 2017, đóng góp 0,17 điểm phần trăm trong tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh.

     Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh

 

Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (%)

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng 6 tháng năm 2017 (điểm %)

Sáu tháng năm 2017

Sáu tháng năm 2018

Tổng số

6,28

6,29

6,29

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

5,11

4,21

0,83

Công nghiệp và xây dựng

7,24

7,07

1,64

Dịch vụ

6,46

6,74

3,65

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm

3,51

5,76

0,17

     Tốc độ tăng trưởng kinh tế 6 tháng năm nay tương đương tốc độ tăng trưởng 6 tháng năm 2017. Trong 3 khu vực của nền kinh tế thì chỉ có khu vực dịch vụ tăng cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Còn lại khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; khu vực công nghiệp - xây dựng tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2017.

     Đối với khu vực công nghiệp - xây dựng, trong 6 tháng đầu năm 2018 trong điều kiện ngành công nghiệp không có dự án lớn nào đi vào hoạt động, đạt được tốc độ tăng trưởng 7,07% là cố gắng lớn. Đối với khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, mặc dù tốc độ tăng trưởng đạt thấp hơn cùng kỳ năm trước, nhưng đạt tốc độ tăng trưởng 4,21% là khá cao so với cùng kỳ các năm trước đây và giá trị sản xuất vượt kế hoạch đề ra (năm 2017 sản xuất nông nghiệp được mùa toàn diện, sản lượng lương thực đạt cao nhất tính đến năm 2017, khai thác thuỷ sản đã phục hồi trở lại và có sự tăng trưởng cao).

     2. Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

     Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong 6 tháng đạt tốc độ tăng trưởng cao. Vụ Đông Xuân năm 2018 được mùa, năng suất và sản lượng nhiều loại cây trồng tăng cao so vụ Đông Xuân năm trước. Đàn trâu, bò, đàn gia cầm phát triển khá. Sản xuất lâm nghiệp chuyển dịch đúng hướng, trồng rừng kinh tế mang lại hiệu quả cao nên người dân đẩy mạnh trồng rừng; công tác chăm sóc, bảo vệ và phát triển vốn rừng được quan tâm thực hiện.

     Dự ước giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2018 (theo giá so sánh năm 2010) đạt 4.320,6 tỷ đồng, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 3.029,0 tỷ đồng, tăng 1,9%; giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp đạt 282,7 tỷ đồng, tăng 13,0%; giá trị sản xuất ngành thủy sản đạt 1.008,9 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ. Kết quả cụ thể như sau:

     2.1. Nông nghiệp

     a. Trồng trọt

     Gieo trồng vụ Đông Xuân gặp khó khăn do thời tiết, nhưng quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng thuận lợi nên kết quả sản xuất vụ Đông Xuân năm 2018 được mùa, năng suất và sản lượng nhiều loại cây trồng đạt khá cao.

     Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm thực hiện 54.612,1 ha, so với vụ Đông Xuân năm trước giảm 1,0%. Diện tích gieo trồng ở các địa phương: Đồng Hới 1.309,1 ha, giảm 4,1%; Ba Đồn 4.700,6 ha, giảm 1,3%; Minh Hoá 2.954,0 ha, giảm 11,9%; Tuyên Hoá 4.581,5 ha, tăng 1,5%; Quảng Trạch 6.445,8 ha, giảm 0,5%; Bố Trạch 13.704,1 ha, giảm 0,6%; Quảng Ninh 7.043,4 ha, giảm 0,9%; Lệ Thuỷ 13.873,6 ha, tăng 0,7%.

     - Cây lúa: Diện tích cây lúa thực hiện 29.873,4 ha, giảm 0,5% so với vụ Đồng Xuân năm trước. Diện tích lúa toàn tỉnh giảm 164,9 ha, tập trung các địa phương: Đồng Hới giảm 36 ha, do chuyển đổi xây dựng cơ sở hạ tầng; Ba Đồn giảm 72 ha, do nhiễm mặn bỏ hoang và xây dựng cơ sở hạ tầng; Quảng Trạch giảm 41 ha, do chuyển đổi đất lúa sang trồng sen và nuôi cá; Bố Trạch giảm 45,1 ha, do chuyển đổi mục đích sử dụng và vùng sâu bỏ hoang.

     Diện tích cây lúa chia theo địa phương: Đồng Hới 943,4 ha, giảm 3,6%; Ba Đồn 2.652,1 ha, giảm 2,7%; Minh Hóa 491,6 ha, tăng 4,2%; Tuyên Hóa 1.478,1 ha, giảm 0,5%; Quảng Trạch 3.509 ha, giảm 1,2%; Bố Trạch 5.398,9 ha, giảm 0,8%; Quảng Ninh 5.216 ha, tăng 0,1%; Lệ Thủy 10.184,3 ha, tăng 0,1%.

     - Các loại cây trồng khác:

     Diện tích các nhóm cây trồng khác: Cây ngô và cây lương thực có hạt khác 3.955,1 ha, giảm 4,1%; cây lấy củ có chất bột 9.189,9 ha, giảm 4,7%; cây mía 165,8 ha, tăng 34,1%; cây thuốc lá, thuốc lào 3,8 ha, tăng 26,7%; cây lấy sợi 3,2 ha, giảm 37,0%; cây có hạt chứa dầu 4.049,4 ha, giảm 9,6%; cây rau, đậu, hoa cây cảnh 5.218,6 ha, tăng 2,7%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 581,2 ha, tăng 32,4%; cây hàng năm khác 1.571,9 ha, tăng 30,6% so với vụ Đông Xuân năm trước.

     Diện tích cây trồng khác giảm tập trung các loại cây: Cây ngô, cây sắn, cây lạc. Trong đó diện tích sắn giảm 463,5 ha, do giá sắn thời gian qua giảm mạnh, người trồng sắn không có lãi đã chuyển sang trồng cây lâu năm; diện tích cây lạc giảm 426,1 ha, do nhiều diện tích lạc trước đây trồng xen với cây cao su, đến nay cây cao su phát triển tán rộng nên không trồng xen được; diện tích cây ngô giảm 144,1 ha, do chuyển đổi sang trồng cây rau đậu, cây gia vị và cây thức ăn gia súc.

     Tuy có ảnh hưởng đến tiến độ gieo trồng, nhưng cơ bản thời tiết vụ Đông Xuân tương đối thuận lợi nên cây trồng phát triển tốt. Một số nơi có xuất hiện sâu bệnh hại cây trồng, như: chuột, ốc bươu vàng, rệp muỗi, tuyến trùng rễ, bệnh đạo ôn lá, sâu xám, sâu cắn lá, rệp phát nên có ảnh hưởng đến năng suất cây trồng nhưng không đáng kể. Sơ bộ đánh giá Vụ Đông Xuân năm 2018 được mùa qua kết quả thăm đồng của các địa phương.

     Dự ước năng suất một số cây trồng chủ yếu vụ Đông Xuân 2018 như sau:

     - Cây lúa: Năng suất bình quân chung toàn tỉnh đạt 61,79 tạ/ha, tăng 0,6% so với vụ Đông Xuân năm trước. Năng suất lúa các địa phương: Đồng Hới 56,38 tạ/ha, giảm 1,14%; Ba Đồn 57 tạ/ha, giảm 0,9%; Minh Hóa 52 tạ/ha, tăng 2,0%; Tuyên Hóa 59,60 tạ/ha, tăng 5,9%; Quảng Trạch 56,31 tạ/ha, giảm 0,9%; Bố Trạch 57,0 tạ/ha, giảm 0,9%; Quảng Ninh 63,4 tạ/ha, tăng 1,1%; Lệ Thủy 67,9 tạ/ha, tăng 1,2% so với vụ Đông Xuân năm trước.

     - Các loại cây trồng khác: Cây ngô năng suất đạt 57,54 tạ/ha, tăng 5,2%; cây khoai lang đạt 77,30 tạ/ha, tăng 0,1%; khoai sọ đạt 95,02 tạ/ha, tăng 2,1%; dong giềng đạt 61,33, tăng 1,1%; cây lạc đạt 22,55 tạ/ha, tăng 0,2%; cây vừng đạt 6,34 tạ/ha, tăng 0,1%; cây rau các loại đạt 115,81 tạ/ha, tăng 1,5%; đậu các loại đạt 8,9 tạ/ha, giảm 3,9%; ớt cay 16,43 tạ/ha, tăng 4,4% so với vụ Đông Xuân năm trước.

     Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân 2018 đạt 207.152,0 tấn, tăng 0,2% so vụ Đông Xuân năm trước, đạt 107,5% so với kế hoạch. Trong đó: Sản lượng thóc 184.587,3 tấn, tăng 0,1% so với vụ Đông Xuân năm trước, đạt 107,9% so với kế hoạch; sản lượng lương thực khác 22.564,7 tấn, tăng 1,3% so với vụ Đông Xuân năm trước.

     Sáu tháng đầu năm 2018, sản xuất cây lâu năm gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của bão số 10 năm trước. Nhiều diện tích cây lâu năm ở các địa phương bị đổ gãy, khó khôi phục. Các địa phương, đơn vị đã tập trung chỉ đạo kiểm tra, soát xét lại diện tích cao su hiện có và tiếp tục chăm sóc; đồng thời triển khai trồng mới một số cây có hiệu quả, phù hợp điều kiện thời tiết hơn nên diện tích cây lâu năm tuy có giảm về quy mô nhưng đã có sự chuyển dịch theo hướng mở rộng diện tích loại cây có thị trường tiêu thụ ổn định, hiệu quả kinh tế cao.

     Tổng diện tích gieo trồng các loại cây lâu năm toàn tỉnh thực hiện 19.770,5 ha, giảm 17,1% so với cùng kỳ. Diện tích cây lâu năm chia theo các nhóm cây như sau: Cây ăn quả 3.604,1 ha, giảm 10,3%; cây lấy quả chứa dầu 31,5 ha, giảm 23,7%; cây hồ tiêu 1.223,7 ha, tăng 15,4%; cây cao su 14.419,4 ha, giảm 18,7%;        cây gia vị, cây dược liệu lâu năm 180 ha, tăng 22,4%; cây lâu năm khác 311,8 ha (cây dâu tằm), giảm 62,8% so với cùng kỳ năm trước.

     Mặc dù bị ảnh hưởng do cơn bão số 10 năm trước, nhưng cây lâu năm được chăm sóc kịp thời, đúng quy trình kỹ thuật nên sản lượng một số loại cây lâu năm tăng so với cùng kỳ năm trước. Ước tính sản lượng một số cây trồng chủ yếu 6 tháng đầu năm 2018: mủ cao su 3.517,2 tấn, tăng 4,0%; hồ tiêu 545,5 tấn, tăng 8,0%; chuối 7.605,3 tấn, tăng 4,2%; dứa 925,5 tấn, tăng 23,4%; mít 956 tấn, giảm 25,3%; nhãn 165,6 tấn, tăng 25,5%; vải 273,1 tấn, tăng 1,8%; xoài 326 tấn, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước.

     b. Chăn nuôi

     Những tháng đầu năm 2018, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm ít xảy ra. Theo đó, chăn nuôi của các địa phương phát triển ổn định. Đặc biệt chăn nuôi theo hướng tập trung (trang trại, gia trại) có xu hướng tăng khá. Điểm đáng mừng đối với người sản xuất chăn nuôi, từ giữa tháng 4 đến nay, giá thịt hơn liên tục tăng, vượt mốc 50.000 đồng/kg thịt hơi. Tuy nhiên, do sợ rủi ro nên người chăn nuôi thận trọng đầu tư tăng đàn.

     Đàn gia súc, gia cầm tại thời điểm 01/4/2018:

     - Đàn trâu 36.252 con, so với cùng kỳ năm trước giảm 2,3%. Số lượng trâu giảm do người nuôi xuất bán trâu chuyển sang đầu tư nuôi bò.

     - Đàn bò 105.337 con, tăng 2,0% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân đàn bò tăng là do một số doanh nghiệp triển khai dự án nuôi bò tập trung, các hộ có điều kiện tự nhiên phù hợp tăng quy mô đàn theo hướng nuôi bò lai Sind.

     - Đàn lợn 312.547 con, giảm 9,3% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các địa phương đều có đàn lợn giảm do giá thịt hơi năm trước giảm sâu, người chăn nuôi thua lỗ nặng nên việc tái đàn gặp khó khăn.

     Trong đàn lợn, đàn lợn nái có 40.517 con, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước.

     - Đàn gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) 3.450,9 ngàn con, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: đàn gà 2.715,1 ngàn con, tăng 7,3%. Sáu tháng đầu năm đàn gia cầm phát triển khá nhanh, đặc biệt chăn nuôi gà theo hướng trang trại và gia trại.

     Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2018: Thịt trâu hơi xuất chuồng 1.282,0 tấn, tăng 9,6%; thịt bò hơi xuất chuồng 3.484,0 tấn, tăng 21,4%; thịt lợn hơi xuất chuồng 25.987,0 tấn, tăng 4,0%; thịt gia cầm hơi xuất chuồng là 5.734 tấn, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước.

     2.2. Lâm nghiệp

     Sáu tháng đầu năm các chủ rừng tiếp tục thực hiện khai thác, triển khai trồng rừng theo kế hoạch năm 2018. Ước tính 6 tháng đầu năm diện tích rừng trồng mới thực hiện 1.140 ha, tăng 39,7%; diện tích rừng được chăm sóc 18.700 ha, tăng 18,4%; số cây trồng phân tán 2.858 ngàn cây, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước.

     Ước tính sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng 6 tháng đầu năm thực hiện 168.750 m3, tăng 14,9%; sản lượng củi khai thác 122.100 ste, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, các chủ rừng đang tích cực đẩy nhanh tiến độ khai thác rừng bị thiệt hại do cơn bão số 10 năm trước, tạo mặt bằng để rừng vào cuối năm nay.

     Công tác bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm. Triển khai kịp thời công tác tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân vùng có rừng; tổ chức tập huấn công tác phòng chống, cháy rừng cho các chủ rừng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát phá rừng trái phép… Vì vậy, từ đầu năm đến nay chưa có hiện tượng cháy rừng xảy ra.

     2.3. Thuỷ sản

     Sản xuất thủy sản 6 tháng đầu năm 2018 phát triển khá về cả khai thác và nuôi trồng. Đặc biệt sau sự cố môi trường biển, nhiều chủ tàu đã mạnh dạn đầu tư nên số lượng và công suất tàu tăng khá. Ước tính 6 tháng đầu năm 2018 sản lượng thuỷ sản đạt 34.145,2 tấn, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,0%. Trong đó: Cá các loại 28.262,3 tấn, tăng 11,5%; tôm các loại 1.838,9 tấn, tăng 3,0%; thủy sản khác 4.044,0 tấn, tăng 20,4%.

     a. Khai thác

     Hiện toàn tỉnh có 6.386 tàu, thuyền khai thác thuỷ sản có động cơ, tăng 7,0% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó khai thác biển có 5.495 chiếc, tăng 8,0%; tổng công suất của tàu, thuyền khai thác biển 726.997 CV, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước.

     Năng lực đánh bắt tăng, bên cạnh đó thời tiết khá thuận lợi cho hoạt động khai thác xa bờ, tạo thuận lợi cho bà con bám biển nên sản lượng khai thác tăng cao. Ước tính 6 tháng đầu năm sản lượng khai thác đạt 30.552,5 tấn, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 26.068,6 tấn, tăng 11,8%; tôm các loại 603,9 tấn, tăng 7,3%; thủy sản khác 3.880,0 tấn, tăng 21,2%.

     b. Nuôi trồng

     Ước tính 6 tháng đầu năm 2018 sản lượng nuôi trồng thu hoạch 3.592,7 tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá các loại 2.193,7 tấn, tăng 8,1%; tôm các loại 1.235,0 tấn, tăng 1,1%; thủy sản khác 164,0 tấn, tăng 3,8%. Sản lượng nuôi trồng thu hoạch 6 tháng đầu năm của một số địa phương có tăng khá so cùng kỳ năm trước. Đặc biệt nuôi cá lồng phát triển mạnh nên sản lượng cá thu hoạch tăng 8,1%. Riêng sản lượng tôm nuôi có giảm do dịch bệnh gan tủy ở một số nơi. Thời gian tới, sản lượng cá nuôi sẽ tiếp tục tăng cao do đẩy mạnh nuôi kết hợp lúa cá đang có chiều hướng phát triển.

     2.4. Trang trại

     Ước tính đến 01/7/2018, toàn tỉnh có 736 trang trại (theo tiêu chí mới), tăng 11 trang trại so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 12 trang trại trồng trọt, giảm 1 trang trại; 204 trang trại chăn nuôi, giảm 9 trang trại; 17 trang trại lâm nghiệp, tăng 4 trang trại; 44 trang trại thuỷ sản, giảm 3 trang trại; 459 trang trại tổng hợp, tăng 20 trang trại so với cùng kỳ năm trước.

     Trang trại tổng hợp thực hiện phương châm “lấy ngắn nuôi dài” nên thời qua liên tục tăng, số lượng trang trại tổng hợp hiện nay chiếm tỷ trọng lớn nhất với 62,4%, tiếp đến là trang trại chăn nuôi chiếm 27,7% tổng số trang trại toàn tỉnh.

     3. Công nghiệp

     Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2018 tăng trưởng thấp hơn so cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu do trong thời gian vừa qua ngành công nghiệp của tỉnh không có năng lực mới có giá trị lớn đi vào hoạt động thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp. Tăng trưởng của công nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào các năng lực hiện có, như: các nhà máy sản xuất xi măng, clinker; các nhà máy chế biến dăm gỗ xuất khẩu và các nhà máy may công nghiệp. Tuy nhiên, các nhà máy này đã đạt gần hết công suất. Trong khi đó, các dự án trọng điểm tạo động lực cho phát triển công nghiệp của tỉnh, như: Dự án nhiệt điện Quảng Trạch, Dự án Nhà máy điện pin mặt trời của Tập đoàn Dohwa... đang trong quá trình triển khai. Một số nhà máy chỉ duy trì mức sản xuất tương đương hoặc thấp hơn so với cùng kỳ năm trước đã ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng chung của ngành công nghiệp.

     * Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

     Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2018 ước tính tăng 5,7% so với cùng kỳ, trong đó: Ngành khai khoáng tăng 6,1%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,8%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 4,1%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,3%.  

     Chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính thực hiện 6 tháng đầu năm 2018 của một số ngành công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như sau: Ngành sản xuất trang phục tăng 12,3%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 9,4%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 7,2%; ngành khai khoáng khác tăng 6,2%; ngành xử lý và cung cấp nước tăng 4,4%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 4,0%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,1%; ngành in, sao chép bản ghi các loại tăng 2,1%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 1,7%; ngành sản xuất đồ uống giảm 1,6% (giảm chủ yếu ở sản phẩm bia của Công ty Cổ phần Bia Hà Nội - Quảng Bình, do sản phẩm tiêu thụ trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn nên Công ty giảm sản lượng sản xuất); ngành sản xuất chế biến thực phẩm giảm 8,8% so với cùng kỳ (do nhà máy sản xuất tinh bột sắn thiếu nguyên liệu cho sản xuất).

     * Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 2010

     Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm 2018 ước tính đạt 5.538,2 tỷ đồng, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Kinh tế Nhà nước ước tính đạt 507,9 tỷ đồng, tăng 8,5%; kinh tế ngoài nhà nước ước tính đạt 3.940,1 tỷ đồng, tăng 1,0%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước tính đạt 1.090,2 tỷ đồng, tăng 34,3%.

     Chia theo ngành kinh tế: Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2018 ngành khai khoáng ước tính đạt 189,6 tỷ đồng, tăng 7,0%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính đạt 5.213,6 tỷ đồng, tăng 6,9%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt ước tính đạt 84,4 tỷ đồng, tăng 5,0%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải ước tính đạt 50,6 tỷ đồng, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước.

     * Sản phẩm công nghiệp chủ yếu

     Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước tính thực hiện 6 tháng đầu năm 2018 như sau: Dăm gỗ đạt 175.475 tấn, tăng 12,7%; áo sơ mi người lớn đạt 6,3 triệu cái, tăng 12,3%; clinker thành phẩm đạt 1,7 triệu tấn, tăng 8,9%; đá xây dựng đạt 1,4 triệu m3, tăng 6,2%; gạch xây dựng bằng đất sét nung đạt 124 triệu viên, tăng 5,3%; xi măng đạt 815.206 tấn, tăng 4,3%; nước máy đạt 4 triệu m3, tăng 4,3%; điện thương phẩm đạt 383,0 triệu Kwh, tăng 3,8%; bia đóng chai đạt 8,2 triệu lít, giảm 3,5%.

     4. Vốn đầu tư

     Sáu tháng đầu năm nay tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng các công trình trên địa bàn diễn ra khá thuận lợi nhờ kế hoạch phân bổ nguồn vốn đầu tư được thực hiện sớm. Bên cạnh đó, giá cả nguyên vật liệu ổn định, nhất là đối với các vật liệu: Thép, xi măng, gạch không tăng giá so cùng kỳ năm trước là điều kiện thuận lợi để triển khai thi công các công trình.

     Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 6 tháng đầu năm ước tính thực hiện 8.246 tỷ đồng, tăng 10,3% so cùng kỳ năm trước. Trong đó khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh ước tính thực hiện 1.642,1 tỷ đồng, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2017.

     Tình hình thực vốn đầu tư Nhà nước quản lý như sau:

     Khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 6 năm 2018 ước tính thực hiện 353,0 tỷ đồng, tăng 14,0% so với tháng trước và tăng 10,0% so với tháng cùng kỳ năm 2017.

     Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh ước tính thực hiện 1.642,1 tỷ đồng, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, vốn ngân sách Trung ương quản lý ước tính thực hiện 489,8 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương quản lý ước tính thực hiện 1.152,3 tỷ đồng. Vốn đầu tư Nhà nước quản lý phân theo một số ngành kinh tế như sau: Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản ước thực hiện 133,6 tỷ đồng, giảm 3,9%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước thực hiện 70,0 tỷ đồng, giảm 1,4%; ngành vận tải kho bãi ước tính thực hiện 958,7 tỷ đồng, tăng 3,0%; ngành an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước ước tính thực hiện 113,8 tỷ đồng, tăng 1,8%; ngành giáo dục và đào tạo ước tính thực hiện 90,8 tỷ đồng, tăng 9,1%; ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội ước tính thực hiện 70,6 tỷ đồng, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2017.

     Một số công trình/dự án trên địa bàn tỉnh được triển khai trong 6 tháng đầu năm 2018 sau:

     Các dự án/công trình về giao thông như: Cầu Nhật Lệ 2; tuyến đường khắc phục ngập úng 2 bên sông cầu rào khu vực trung tâm thành phố Đồng Hới; tuyến đường ngang dọc nối từ QL 1A đi Bàu Sen đến vị trí quy hoạch khu trung tâm hành chính huyện lỵ mới của huyện Quảng Trạch.

     Các dự án/công trình về thủy lợi như: Kè cửa biển Nhật Lệ; củng cố nâng cấp tuyến đê kè Tả sông Gianh; Cảng cá Ròon, huyện Quảng Trạch; Dự án sửa chữa và nâng cao an toàn hồ đập.

     Các dự án/công trình về quản lý Nhà nước: Hiện nay, các trụ sở cơ quan đang gấp rút thi công các hạng mục sớm đưa vào sử dụng đảm bảo đúng kế hoạch, cụ thể: Trụ sở Ban Chỉ huy quân sự thành phố Đồng Hới, công trình Sở chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh; Trung tâm Văn hóa tỉnh.

     Các dự án/công trình về công nghiệp chế biến và thương nghiệp, như: Dự án đầu tư xây dựng công trình đường trục dọc Khu kinh tế Hòn La; hạ tầng kỹ thuật Khu trung tâm cửa khẩu Quốc tế Cha Lo (giai đoạn 2); hạ tầng khu thuế quan và các điểm dịch vụ khu kinh tế cửa khẩu Chao Lo tiếp tục được đầu tư xây dựng, giải phóng mặt bằng, thu hút được các doanh nghiệp đầu tư xây dựng.

     Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2018 tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh ổn định, thực hiện đúng tiến độ đề ra.

     5. Thương mại, dịch vụ

     a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

     Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 6 đạt 1.680,9 tỷ đồng, tăng 2,9% so tháng trước và tăng 14,6% so với cùng kỳ; 6 tháng tổng mức bán lẻ hàng hoá ước tính đạt 9.829,0 tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ.

     Theo thành phần kinh tế, doanh thu 6 tháng đầu năm của hầu hết các thành phần kinh tế đều có mức tăng trưởng cao so cùng kỳ, cụ thể: thành phần kinh tế Nhà nước doanh thu 6 tháng ước tính đạt 543,0 tỷ đồng, tăng 32,2%; kinh tế tập thể ước tính đạt 6,2 tỷ đồng, tăng 22,0%; kinh tế cá thể ước tính đạt 5.673,7 tỷ đồng, tăng 9,9%; kinh tế tư nhân ước tính đạt 3.606,1 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước.

     Doanh thu 6 tháng đầu năm phần lớn các nhóm hàng đều tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Tăng cao nhất là nhóm ô tô các loại, tăng 45,5%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 14,9%; nhóm sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ tăng 15,3%; nhóm xăng, dầu các loại tăng 14,3%; nhóm hàng may mặc tăng 9,9%; nhóm lương thực, thực phẩm tăng 9,9%; nhóm đồ dung, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 10,6%; nhóm hàng hóa khác tăng 10,1% . Có 1 nhóm giảm đó là nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục giảm 1,1% so cùng kỳ.

     b. Lưu trú, ăn uống và du lịch

     Trong những tháng đầu năm ngành du lịch Quảng Bình đã tập trung nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ du lịch; phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch; khuyến khích đầu tư xây dựng hạ tầng phục vụ du lịch. Đẩy mạnh công tác giới thiệu, quảng bá, hợp tác quốc tế, liên kết vùng, miền, mở rộng không gian và thị trường du lịch để thu hút khách. Cùng với đó, công tác phát triển giao thông phục vụ cho nhu cầu đi lại nói chung và phát triển du lịch được quan tâm. Các đường bay hiện có phát huy hiệu quả, Hiệp hội du lịch và các công ty lữ hành Quảng Bình tổ chức ký kết, phối hợp với Công ty cổ phần vận tải đường sắt Hà Nội thực hiện “Chương trình liên minh kích cầu du lịch vận chuyển bằng đường sắt”…

     Các thế mạnh du lịch văn hóa, tâm linh, du lịch cộng đồng của tỉnh được khai thác tốt, mang lại hiệu quả…Tỉnh đã tổ chức thành công Lễ hội Chùa Hoàng Phúc; Hội thi Cá trắm và đua thuyền sông Son; xây dựng cung đường bích họa ở làng biển Cảnh Dương; tổ chức Lễ hội cầu ngư ở Cảnh Dương; tổ chức Tuần lễ Văn hóa Du lịch thành phố Đồng Hới; tổ chức Tuần lễ Văn hóa -Thể thao - Du lịch và Hội Rằm tháng 3 huyện Minh Hóa… thu hút đông đảo du khách.

     - Dịch vụ lưu trú

     Doanh thu lưu trú tháng 6 ước tính đạt 16,7 tỷ đồng, tăng 12,7% so tháng trước và tăng 12,7% so cùng kỳ; 6 tháng doanh thu ước đạt 68,4 tỷ đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước.

     Số lượt khách lưu trú tháng 6 ước tính đạt 87.854 lượt khách, tăng 11,4% so tháng trước và tăng 12,2% so cùng kỳ; 6 tháng ước tính đạt 390.023 lượt khách, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 6 ước tính đạt 6.644 lượt khách, tăng 9,1% so tháng trước và tăng 29,2% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng ước tính đạt 31.762 lượt khách, tăng 25,8% so với cùng kỳ năm trước.

     Ngày khách tháng 6 ước tính đạt 105.953 ngày khách, tăng 11,7% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ; 6 tháng ước tính đạt 461.601 ngày khách, tăng 15,5% so cùng kỳ năm trước.

     - Dịch vụ ăn uống

     Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 6 ước tính đạt 185,0 tỷ đồng, tăng 6,8% so với tháng trước và tăng 19,0% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng doanh thu ước tính đạt 974,0 tỷ đồng, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước.

     - Dịch vụ lữ hành

     Tháng 6, là tháng du lịch cao điểm, đặc biệt do thời tiết nắng nóng nên các tour du lịch sinh thái khám phá tại Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng khai thác hết công suất.

     Ước tính tháng 6 doanh thu hoạt động lữ hành đạt 37,2 tỷ đồng, tăng 20,2% so với tháng trước và tăng 20,0% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng doanh thu ước tính đạt 149,1 tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước.

     Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 6 ước tính đạt 136.750 lượt khách, tăng 40,5% so với tháng trước và tăng 5,5% so cùng kỳ năm trước; 6 tháng ước đạt 444.668 lượt khách, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước.

     Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 6 ước tính đạt 15.060, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 65,1% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng ước đạt 75.455 lượt khách, tăng 40,3% so cùng kỳ năm trước. Nhìn chung lượt khách quốc tế tăng khá cao do nhiều nước được bỏ visa thị thực nhập cảnh và khách quốc tế đa dạng hơn về quốc tịch đến, đặc biệt là các nước Châu Á thay vì phần lớn là khách Châu Âu và Châu Mỹ như các năm trước.

     c. Hoạt động dịch vụ

     Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 6 ước tính đạt 90,6 tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 6 tháng đầu năm 2018 doanh thu đạt 514,5 tỷ đồng, tăng 8,0% so với cùng kỳ năm trước.

     Sáu tháng đầu năm 2018, doanh thu phần lớn các nhóm hàng dịch vụ đều tăng so với cùng kỳ. Tăng cao nhất là nhóm dịch vụ khác tăng 12,6%; tiếp đến nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 10,1%; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 10%; nhóm dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 8,3%; nhóm dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 8,8%; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 3,5%; có 1 nhóm giảm là nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước.

     d. Hoạt động vận tải

     Hiện nay đang là cao điểm của mùa du lịch nên nhu cầu tham quan, đi lại của người dân tăng cao. Bên cạnh đó, điều kiện thời tiết khá thuận lợi nên tiến độ xây dựng nhà ở, cơ sở hạ tầng được đẩy nhanh, do đó các doanh nghiệp cũng như các cơ sở kinh doanh vận tải tập trung tăng chuyến nhằm phục vụ việc vận chuyển hàng hóa đáp ứng kịp thời cho các đơn vị thi công và nhu cầu đi lại của người dân.

     Tổng doanh thu vận tải tháng 6 ước tính đạt 284,4 tỷ đồng, tăng 2,4% so với tháng trước; 6 tháng doanh thu ước tính đạt 1.634,4 tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu vận tải hành khách ước tính đạt 313,6 tỷ đồng, tăng 7,2%; doanh thu vận tải hàng hóa ước tính đạt 1.121,8 tỷ đồng, tăng 7,2%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước tính đạt 199,0 tỷ đồng, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước.

     Tổng số hành khách vận chuyển tháng 6 ước tính đạt 2,2 triệu hành khách, tăng 3,3% so với tháng trước; 6 tháng ước tính đạt 12,4 triệu hành khách, tăng 7,0% so với cùng kỳ. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 6 ước tính đạt 100,4 triệu hk.km, tăng 3,5% so với tháng trước; 6 tháng ước tính đạt 556,7 triệu hk.km, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước.

     Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 6 ước tính đạt 2,2 triệu tấn, tăng 1,8% so với tháng trước; 6 tháng ước tính đạt 12,7 triệu tấn, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước. Tổng khối lượng hàng hoá luân chuyển tháng 6 ước tính đạt 104,4 triệu tấn.km, tăng 1,9% so với tháng trước; 6 tháng ước tính đạt 609,7 triệu tấn.km, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước.

     II. XÃ HỘI

     1. Giáo dục và đào tạo

     a. Giáo dục

     Năm học 2017 - 2018, ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đẩy mạnh xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở cấp mầm non, phổ thông. Mạng lưới trường, lớp các cấp học và trình độ đào tạo cơ bản được điều chỉnh, sắp xếp phù hợp, đáp ứng được nhu cầu học tập, đào tạo của học sinh trong toàn tỉnh.

     Về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi: Có 158/159 xã, phường, thị trấn (đạt tỷ lệ 99,4%) và 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn. Tỉnh duy trì vững chắc đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.

     Về phổ cập giáo dục tiểu học: Có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 trở lên, trong đó, có 150/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (tỷ lệ 93,7%); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn  phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 trở lên, trong đó, có 7/8 huyện, thị, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (tỷ lệ 87,5%). Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2.

     Về phổ cập giáo dục THCS: Có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên, trong đó, có 158/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 99,4%); có 108/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 3 (tỷ lệ 67,92 %); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên; trong đó, có 7 huyện, thị xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 và thành phố Đồng Hới đạt chuẩn mức độ 3. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1.

     Về xóa mù chữ: Có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1 trở lên; trong đó, có 157/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 (tỷ lệ 98,7 %); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.

     Về kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh: Kết quả kỳ thi học sinh giỏi tỉnh lớp 9, lớp 11 và lớp 12: Lớp 9 có 528/1.037 thí sinh đạt giải (33 giải nhất, 99 giải nhì, 169 giải ba, 227 giải khuyến khích); lớp 11 có 538/1.216 thí sinh đạt giải (27 giải nhất, 89 giải nhì, 156 giải ba, 266 giải khuyến khích); lớp 12 có 381/760 thí sinh đạt giải (17 giải nhất, 66 giải nhì, 124 giải ba, 174 giải khuyến khích). 

     Về kết quả thi học sinh giỏi cấp Quốc gia: Toàn tỉnh có 38/60 học sinh đạt giải; trong đó có 37 học sinh đạt giải là học sinh của trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp, chỉ có duy nhất một học sinh trường THPT Lê Quý Đôn (Bố Trạch) tham dự đội tuyển môn Toán và đạt giải khuyến khích. Trong số 38 em đạt giải, có 12 em đạt giải nhì, 8 em đạt giải ba và 18 em đạt giải khuyến khích. Đáng chú ý trong 9 đội tuyển tham dự kỳ thi này, đội Địa lý và Lịch sử có 100% học sinh đều đạt giải, trong đó môn Địa lý có 2 giải nhì, 1 giải ba và 5 giải khuyến khích; môn Lịch sử có 8/8 học sinh tham gia đều đạt giải, với 4 giải nhì, 1 giải ba và 3 giải khuyến khích. Đây là kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia có số lượng giải cao nhất từ năm 2010 trở lại đây.

     Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2018 - 2019: Để giảm áp lực cho phụ huynh và học sinh, Sở Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chỉ thi tuyển đối với học sinh vào Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp; các trường trung học phổ thông còn lại sẽ không thi tuyển mà phân vùng tuyển sinh, mỗi huyện, thành phố là một vùng tuyển sinh; riêng huyện Quảng Trạch và thị xã Ba Đồn ghép lại một vùng tuyển sinh. Về phần đăng ký dự tuyển, một học sinh chỉ được đăng ký 1 nguyện vọng (đăng ký dự tuyển vào 1 trường trung học phổ thông). Học sinh đủ điều kiện và có nguyện vọng vào học trường trung học phổ thông nào thì nộp đơn và hồ sơ tuyển sinh tại trường đó.

     Kỳ thi vào Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp diễn ra trong 2 ngày. Ngày 4 và sáng 5/6/2018, thi các môn Chung (Văn, Tiếng Anh, Toán ); chiều 5/6/2018 thi 9 môn chuyên: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Tiếng Anh, Tin học. Tham dự kỳ thi vào lớp 10, Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp có 734 học sinh đăng ký thi tuyển vào 9 môn chuyên.

     Về kỳ thi THPT Quốc gia năm 2018: Kỳ thi THPT Quốc gia năm nay tiếp tục thực hiện 1 cụm thi dành cho tất cả các thí sinh đăng ký dự thi tại tỉnh do Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình chủ trì, phối hợp với các trường đại học, cao đẳng tổ chức. Các điểm thi được đặt tại trường hoặc liên trường phổ thông trên cơ sở tạo thuận lợi cho việc đi lại của thí sinh dự thi. Kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2018 sẽ diễn ra từ ngày 24 đến 27/6/2018, với 5 môn thi: Ngữ văn, Toán, bài thi Khoa học tự nhiên, Ngoại ngữ và bài thi Khoa học xã hội.

      Để chuẩn bị tốt cho kỳ thi THPT Quốc gia năm 2018, trong 3 ngày từ 15- 17/5, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thi thử cho tất cả thí sinh đang học lớp 12 đăng ký dự thi THPT Quốc gia năm 2018 trên địa bàn toàn tỉnh. Hiện tại, Sở Giáo dục và Đào tạo đang kiểm tra cơ sở vật chất của các trường được chọn làm điểm thi; phối hợp chặt chẽ với các trường đại học trong công tác coi thi, để kịp thời ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, hạn chế những sai sót, kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, thí sinh có hành vi vi phạm Quy chế thi… góp phần tăng cường kỷ cương, nề nếp trong thi cử.

     b. Đào tạo

     Trong năm học mới 2018 - 2019, chỉ tiêu tuyển sinh trường Đại học Quảng Bình 1.710 chỉ tiêu hệ đại học, cao đẳng hệ chính quy; trong đó, hệ đại học 1.240 chỉ tiêu, cao đẳng sư phạm 90 chỉ tiêu và cao đẳng ngoài sư phạm 380 chỉ tiêu. Đối tượng tuyển sinh gồm các ngành đào tạo cử nhân, kỹ sư ngoài sư phạm tuyển sinh trong cả nước; riêng các ngành sư phạm chỉ tuyển thí sinh có hộ khẩu tại Quảng Bình (điểm trúng tuyển theo ngành học).

     Phương thức tuyển sinh: Đối với các ngành đại học Sư phạm, trường xét tuyển dựa vào kết quả kỳ thi THPT Quốc gia trên cơ sở hồ sơ đăng ký xét tuyển của thí sinh đối với tất cả các ngành học. Đối với các ngành đại học ngoài sư phạm và cao đẳng sư phạm, trường xét tuyển 2 phương thức: xét tuyển dựa vào kết quả kỳ thi THPT Quốc gia trên cơ sở hồ sơ đăng ký xét tuyển của thí sinh đối với tất cả các ngành học và xét tuyển dựa vào kết quả học tập năm lớp 12 (điểm trung bình cả năm của các môn được quy định trong tổ hợp xét tuyển).

     2. Công tác y tế

     a. Hoạt động khám chữa bệnh

     Ước tính 6 tháng đầu năm 2018 toàn tỉnh có 623.166 lần người được khám chữa bệnh; trong đó, tuyến tỉnh 55.364 lần người; tuyến huyện/thị xã/thành phố 259.408 lần người; tuyến xã/phường/thị trấn 308.394 lần người. Nhìn chung, hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn về khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng tiến độ; hoạt động khám chữa bệnh đã thực hiện tốt các quy chế chuyên môn, quy trình kỹ thuật bệnh viện, đáp ứng nhu cầu khám, thu dung điều trị người bệnh, thực hiện y đức. Các cơ sở y tế đã phát huy hiệu quả máy móc, trang thiết bị hiện có như: máy nội soi, máy siêu âm, máy thở, máy xét nghiệm nhiều thông số… nên cơ bản đã đảm bảo an toàn điều trị, nâng cao chất lượng chăm sóc điều dưỡng cho người bệnh.

     b. Công tác phòng chống dịch bệnh

     Công tác giám sát dịch bệnh thực hiện chặt chẽ, đặc biệt là Sốt xuất huyết và các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Các Trung tâm y tế dự phòng huyện, thị xã, thành phố triển khai xây dựng kế hoạch phòng chống dịch bệnh nguy hiểm năm 2018. Theo báo cáo của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, luỹ kế từ đầu năm đến ngày 30/4/2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 28 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 3 trường hợp tay - chân - miệng; 1.292 trường hợp tiêu chảy; 38 trường hợp lỵ trực trùng; 28 trường hợp lỵ a míp; 45 trường hợp viêm gan vi rút khác; 357 trường hợp thủy đậu; 241 trường hợp quai bị; 4.248 trường hợp cúm; 2 trường hợp Lao phổi. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra.

     c. Tình hình nhiễm HIV/AIDS 

     Từ đầu năm đến 30/4/2018 trên địa bàn tỉnh đã có 17 người nhiễm HIV, 41 người chuyển sang AIDS, số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 2 người. Tính đến ngày 30/4/2018, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.368 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 427 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 137 người. Sở Y tiếp tục duy trì các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục, chương trình an toàn truyền máu trong các dịch vụ y tế.

     d. Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm

     Từ đầu năm đến nay, ngành Y tế Quảng Bình đã tích cực tiến hành kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm 8 huyện/thị xã/thành phố. Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm đã phối hợp liên ngành tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm, tập trung vào các quầy tạp hoá, chợ, các nơi bán thực phẩm hàng ngày, đã tổ chức nhiều cuộc thanh tra chuyên đề trên diện rộng về vệ sinh an toàn thực phẩm, hành nghề y, dược tại các cơ sở trên địa bàn tỉnh, trong các dịp Lễ hội, đón Tết Nguyên đán, tháng hành động vì chất lượng VSATTP, thực hiện thanh tra đột xuất, thường quy việc chấp hành các quy định về khám chữa bệnh, thuốc giả, giá thuốc… Nhờ đó, từ đầu năm đến ngày 05/6/2018 toàn tỉnh chưa xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào và chỉ xảy ra 147 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

     e. Chương trình phòng chống sốt rét

     Trung tâm phòng chống Sốt rét - Nội tiết tỉnh đã tổ chức giám chặt chẽ tình hình sốt rét trên địa bàn, chuẩn bị chu đáo cho công tác phun tẩm hóa chất phòng chống véc tơ, tích cực triển khai các biện pháp phòng chống sốt rét ở các địa bàn trọng điểm. Từ đầu năm đến hết tháng 4/2018, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 727 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 37 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính (SRAT) và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét. Tiến hành xét nghiệm lam và test cho 14.647 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,19%.

     3. Văn hoá thông tin

     a. Công tác thông tin tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính trị

     Sáu tháng đầu năm 2018, các hoạt động văn hóa, thông tin đã diễn ra xuyên suốt với tinh thần trang trọng, thiết thực thông qua các hoạt động Lễ hội. Đáng chú ý là trong chuỗi các hoạt động là chương trình nghệ thuật mừng Đảng - mừng Xuân, chào mừng kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; các hoạt động thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh nhân dịp kỷ niệm 43 năm ngày Giải phóng miền Nam - Thống nhất đất nước và 132 năm Ngày Quốc tế Lao động; kỷ niệm 128 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; kỷ niệm 70 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc; tuyên truyền về chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh...

     b. Công tác phát triển các lĩnh vực văn hóa

     Tổ chức các hoạt động vinh danh Bài chòi Trung Bộ Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Sở Văn hóa và Thể thao tích cực thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh “Nghiên cứu, định hướng bảo tồn Lễ hội Cầu ngư của ngư dân miền biển tỉnh Quảng Bình”, đồng thời xây dựng hồ sơ để đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Lễ hội Cầu ngư tỉnh Quảng Bình là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

     Tiếp tục thực hiện tốt việc quản lý, trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh. Trong đó thực hiện hồ sơ khoa học và đề nghị thẩm định, xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt (Đồi Cha Quang; Cổng Trời; Ngầm Cà Roòng); tham mưu cho UBND tỉnh đề nghị nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp thuận chủ trương và thỏa thuận thiết kế bản vẽ thi công bảo quản, tu bổ phục hồi các di tích lịch sử: Điện Thành hoàng Vĩnh Lộc; Khu Giao tế Quảng Bình; Lăng mộ và Miếu thờ Hoàng Hối Khanh. Tham mưu về việc xây dựng tượng đài Fidel Castro trong khuôn viên Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới; tổ chức trưng bày 2 chuyên đề tại Bảo tàng tổng hợp tỉnh: Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, những bằng chứng lịch sử và pháp lý; Thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên Quảng Bình.

     Các hoạt động văn hóa, thể thao để lại dấu ấn tốt đẹp đối với quần chúng nhân dân và du khách trong Tuần Văn hóa - Du lịch thành phố Đồng Hới và Tuần lễ Văn hóa - Thể thao - Du lịch huyện Minh Hóa, các địa phương khác cũng tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ phong phú, ý nghĩa, tạo sân chơi bổ ích cho quần chúng nhân dân. Ngoài ra, hoạt động thăm viếng tại các điểm di tích, lễ hội đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với thuần phong mỹ tục và lịch sử văn hóa truyền thống của địa phương.

     c. Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở

     Đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh tiếp tục được tổ chức với nhiều hình thức và nội dung phong phú, tạo không khí tươi mới, góp phần cổ vũ tinh thần nhân dân trong lao động, sản xuất. Nổi lên là Tuần Văn hoá - Du lịch Đồng Hới năm 2018 diễn từ ngày 24/4 đến 30/4/2018 với nhiều hoạt động đan xen được liên kết với nhau thành một chuỗi hoạt động liên tục trong một không gian rộng và đậm nét văn hóa truyền thống của địa phương. Tuần Văn hóa - Du lịch 2018 tiếp tục duy trì các hoạt động như Lễ hội Cướp cù, Lễ hội đường phố, múa bông chèo cạn, ẩm thực, chương trình nghệ thuật, Hội Bài chòi, Liên hoan các câu lạc bộ, đội, nhóm nhảy… Triển lãm ảnh với chủ đề Đồng Hới xưa và nay; liên hoan lân - sư - rồng; âm nhạc đường phố.

     Tuần lễ Văn hóa - Thể thao - Du lịch và Hội Rằm tháng ba Minh Hóa 2018 diễn ra từ ngày 25 đến 30/4 với nhiều hoạt động thể thao, văn hóa, nghệ thuật và ẩm thực dân gian đặc sắc như: thi đấu các môn thể thao truyền thống và trò chơi dân gian; giải bóng chuyền; hội diễn nghệ thuật quần chúng; các hoạt động văn hóa, ẩm thực, dịch vụ thương mại.

     Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tham gia hưởng ứng; Sở Văn hóa và Thể thao đã hướng dẫn Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn; hướng dẫn thực hiện tiêu chí số 6 và 16 trong bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Hoàn thành việc trang cấp thiết bị văn hóa cơ sở theo theo chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Chú trọng việc theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ xã Thanh Thủy, huyện Lệ Thủy trong việc xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới năm 2018.

     4. Hoạt động thể dục thể thao

     - Thể thao quần chúng

     Phong trào thể dục, thể thao của tỉnh đã có những bước chuyển biến, góp phần đáng kể vào việc duy trì và nâng cao thể chất cho nhân dân. Đến nay, tỷ lệ người tập luyện thể thao thường xuyên ước đạt 30,9%, số gia đình thể thao ước đạt 25,3%. Các địa phương trên địa bàn tỉnh cũng đã triển tổ chức ngày chạy  Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2018 vào ngày 25/3/2018, mỗi xã, phường, thị trấn huy động trên 10% tổng số dân cư sống trên địa bàn trực tiếp tham gia.

     Các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng trong 6 tháng đầu năm 2018 được các cấp, các ngành quan tâm đẩy mạnh. Đáng chú ý là trong dịp Tết Nguyên đán đã tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao như bóng chuyền, bóng đá và các môn thể thao truyền thống; thị xã Ba Đồn đã tổ chức Hội vật truyền thống ngày xuân vào ngày 25/2; huyện Lệ Thủy tổ chức các hoạt động kéo co, cờ tướng, bài chòi, đẩy gậy, giải bóng chuyền nam nhân dịp tổ chức Lễ hội Di tích chùa Hoằng Phúc; thành phố Đồng Hới đã tổ chức thành công giải đua thuyền truyền thống trên sông Nhật Lệ; Huyện Bố Trạch tổ chức lễ hội đua thuyền truyền thống lần thứ 2; hội thi cá trắm sông Son và liên hoan ẩm thực di sản năm 2018…

     Chào mừng kỷ niệm 128 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 18/5/2018 Sở Văn hóa và Thể thao phối hợp với UBND huyện Quảng Trạch tổ chức khai mạc Giải kéo co Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Quảng Bình lần thứ VIII năm 2018. Tham gia giải kéo co Đại hội TDTT lần này có 19 đội với gần 150 vận động viên; trong đó có 6 đội nam, 7 đội nữ và 6 đội nam nữ phối hợp của các huyện, thị xã, thành phố và Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh. Giải kéo có Đại hội TDTT tỉnh Quảng Bình lần thứ VIII năm 2018 là hoạt động nhằm tiếp tục phát triển phong trào "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác hồ vĩ đại", nâng cao sức khỏe để đáp ứng nhu cầu học tập, công tác, lao động sản xuất của cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn tỉnh.

     - Thể thao thành tích cao

     Từ ngày 15 - 21/5/2018 tại Câu lạc bộ Bơi, Lặn thành phố Đà Nẵng, Hiệp hội Thể thao dưới nước Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao Đà Nẵng tổ chức giải Bơi - Lặn Vô địch các nhóm tuổi trẻ quốc gia năm 2018. Giải thu hút 350 vận động viên (VĐV) đến từ 34 tỉnh, thành, ngành trên toàn quốc tham gia tranh tài 163 bộ huy chương ở 03 nhóm tuổi: dưới 13 tuổi, 14- 15 tuổi và 16- 18 tuổi. Kết thúc giải, các VĐV đội tuyển Bơi, Lặn Quảng Bình đã xuất sắc giành được 28 huy chương các loại; trong đó có 11 Huy chương Vàng, 09 Huy chương Bạc và 08 Huy chương Đồng.

     Đến nay, thể thao thành tích cao đã đạt được 71 HC các loại, trong đó có 27 HCV, 22 HCB và 22 HCĐ. Đặc biệt, tại giải Bơi, Lặn vô địch quốc gia, các vận động viên Quảng Bình được xếp hạng Ba toàn đoàn.

     5. Tình hình an toàn giao thông

     Theo báo cáo của Công an tỉnh, tháng 5 năm 2018 toàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, giảm 9 vụ so với tháng 5 năm 2017, trong đó đường bộ 12 vụ, giảm 9 vụ; đường sắt 1 vụ, bằng cùng kỳ ; đường thủy không xảy ra. Số người chết do tai nạn giao thông 5 người, giảm 3 người so với tháng 5 năm 2017; trong đó đường bộ chết 5 người, giảm 2 người; đường sắt không xảy ra,  giảm 1 người; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 9 người, giảm 15 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 7 người, giảm 17 người, đường sắt bị thương 2 người, tăng 2 người so với tháng 5 năm 2017.

     Lũy kế 5 tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh đã xảy ra 82 vụ tai nạn giao thông, giảm 24 vụ so với cùng kỳ năm 2017, trong đó đường bộ 81 vụ, giảm 22 vụ so cùng kỳ; đường sắt  xảy ra 1 vụ, giảm 2 vụ so cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 46 người, giảm 9 người so cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 46 người, giảm 7 người; đường sắt không xảy ra, giảm 2 người so với cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 57 người, giảm 22 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 55 người, giảm 24 người; đường sắt bị thương 2 người, tăng 2 người, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2017.

     6. Một số vấn đề xã hội

     Theo báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, ước tính đến 30/6/2018, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 19.080 lao động (đạt 53% KH năm), trong đó: số người được tạo việc làm là 10.108 người (đạt 53,2% KH năm), số lao động thiếu việc làm được tạo thêm việc làm là 8.972 người (đạt 52,8% KH năm); trong đó, số lao động được tuyển dụng làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng 1.650 người (đạt 55% KH năm). Trung tâm Dịch vụ việc làm đã tổ chức 8 phiên giao dịch việc làm định kỳ tại Sàn giao dịch việc làm và 8 phiên giao dịch việc làm lưu động tại các địa phương thu hút 50 lượt doanh nghiệp tham gia, 449 người tham gia phỏng vấn trực tiếp, 234 người nhận được việc làm sau khi phỏng vấn; tư vấn về việc làm và xuất khẩu lao động cho trên 12.000 lượt người, giới thiệu và cung ứng 1.673 lao động; tiếp nhận 1.445 hồ sơ đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

     Đã phân bổ 2.702 tấn gạo cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và thời kỳ giáp hạt; chỉ đạo các địa phương trao Thiệp mừng thọ của Chủ tịch nước cho 64 cụ tròn 100 tuổi và chúc thọ 825 cụ tròn 90 tuổi với tổng kinh phí 378 triệu đồng. Đối tượng đang được nuôi dưỡng, chăm sóc tại Trung tâm Bảo trợ xã hội là 48 người, tại Trung tâm Chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần là 20 người, tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế là 80 người.

     Tóm lại, triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, mặc dù gặp không ít khó khăn, nhưng kinh tế duy trì được đà tăng trưởng, sản xuất nông nghiệp được mùa, sản xuất thuỷ sản phát triển ổn định hơn, du lịch tiếp tục có nhiều khởi sắc, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển kinh tế - xã hội còn một số khó khăn: So với kế hoạch cả năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp; ngành công nghiệp tăng trưởng thấp so với cùng kỳ và kế hoạch năm. Do đó, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, nhất là đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế 7% theo kế hoạch đề ra, tỉnh cần thực hiện tốt những vấn đề sau:

     Một là, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra thuế, quản lý chặt kê khai và hoàn thuế giá trị gia tăng, có biện pháp hiệu quả chống thất thu đối với các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, thu hồi nợ đọng thuế. Giám sát chặt chẽ các khoản chi từ ngân sách Nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, mua sắm, hội họp. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.

     Hai là, tập trung thực hiện tốt kế hoạch sản xuất vụ Hè Thu năm 2018. Tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, có giá trị gia tăng cao và thích ứng với điều kiện của địa phương. Đẩy mạnh liên kết sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch. Tăng cường các biện pháp giám sát bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, phát hiện và ngăn chặn kịp thời việc sử dụng chất cấm trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; giảm thiểu ô nhiễm sinh học và tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của người dân. 

     Ba là, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất là chế biến sản phẩm nông nghiệp; sản xuất hàng tiêu dùng. Tiếp tục kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp để nâng cao năng lực sản xuất.

     Bốn là, tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch, có chính sách, biện pháp thu hút hiệu quả khách du lịch quốc tế, nhất là khách đến từ các thị trường có mức chi tiêu cao, lưu trú dài ngày. Chú trọng đầu tư về cơ sở hạ tầng và nhân lực cho ngành du lịch; đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, trong đó đẩy mạnh phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và du lịch cộng đồng. Tăng cường kiểm tra việc niêm yết giá tại các nhà hàng, khách sạn, cơ sở lưu trú; tiếp tục khuyến khích sử dụng các sản phẩm sản xuất trong tỉnh. Tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân về giữ gìn, bảo vệ môi trường, văn hóa ứng xử trong kinh doanh và an ninh trật tự ở các khu du lịch.

     Năm là, thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Thực hiện tốt công tác chuẩn bị tổ chức kỳ thi chung tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2017. Tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ./.

[Trở về]