THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng tỉnh Quảng Bình 
     I. KINH TẾ

     1. Nông nghiệp

     a. Trồng trọt

     Thời tiết đầu vụ Đông Xuân năm 2019 diễn biến thất thường, một số địa phương gặp khó khăn trong khâu làm đất cày ải do ít mưa, thiếu nước. Một số cây trồng vụ Đông Xuân sớm đã triển khai gieo trồng như ngô, khoai lang, rau các loại nhằm chủ động hạn chế thiếu lương thực trong các tháng giáp hạt sắp đến. Ước tính đến cuối tháng 11, diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân thực hiện 2.707 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,5%. Cụ thể một số cây thực hiện như sau: Cây ngô 385 ha, tăng 0,8%; cây khoai lang 835 ha, tăng 1,5%; cây rau các loại 1.120 ha, tăng 1,3%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 82 ha, tăng 2,5%; cây hàng năm khác 130 ha, tăng 4,0% (tăng cây thức ăn nuôi bò).

     Hiện tại, các địa phương đang đẩy nhanh tiến độ làm đất gieo cấy cây lúa; thực hiện công tác chuẩn bị như giống, phân bón, triển khai tu sửa nạo vét kênh mương nhằm tạo thuận lợi thực hiện sản xuất vụ Đông Xuân 2019.

     b. Chăn nuôi

     Những tháng cuối năm 2018, sản xuất chăn nuôi của các địa phương có chiều hướng phát triển khá. Nhờ giá thịt lợn hơi tăng lên nên người chăn nuôi đầu tư mở rộng quy mô đàn lợn. Chăn nuôi trâu, bò, gia cầm phát triển ổn định. Nhờ chăn nuôi tập trung phát triển khá nhanh theo mô hình trang trại, gia trại, doanh nghiệp tư nhân nên hệ số xuất chuồng tăng lên, sản lượng xuất chuồng cao hơn năm trước.

     Ước tính đàn gia súc, gia cầm thời điểm 01/11/2018:

     Đàn trâu 35.980 con, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước;

     Đàn bò 105.220 con, tăng 0,02% so với cùng kỳ năm trước;

     Đàn lợn 345.010 con, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước;

     Đàn gia cầm 3.816 ngàn con, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước;

     Riêng đàn gà 2.948 ngàn con, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước.

     Ước tính 11 tháng sản lượng thịt hơi xuất chuồng 70.032 tấn, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,2%. Cụ thể từng loại sản phẩm như sau: Thịt trâu 1.960 tấn, tăng 3,9%; thịt bò 5.914 tấn, tăng 6,1%; thịt lợn 49.812 tấn, tăng 3,7%; gia cầm 13.346,3 tấn, tăng 5,3%. Riêng thịt gà 9.300 tấn, tăng 3,2%.

     Dự báo trong thời gian tới, chăn nuôi lợn có chiều hướng phát triển trở lại nhanh hơn và khả năng xuất chuồng tăng cao và tạo nguồn hàng đáp ứng đủ nhu cầu cho người tiêu dùng, đặc biệt là dịp Tết Nguyên đán sắp đến.

     2. Lâm nghiệp

     Trong tháng 11, lĩnh vực lâm nghiệp tiếp tục thực hiện khai thác gỗ rừng trồng; đồng thời đẩy nhanh tiến độ trồng rừng theo kế hoạch năm 2018. Ước tính 11 tháng, sản lượng gỗ khai thác 426.100 m3, tăng 9,3%; sản lượng củi khai thác là 265.900 ste, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước.

     Diện tích rừng trồng mới tập trung 11 tháng đạt 3.775 ha, tăng 6,1%; diện tích rừng trồng được chăm sóc 11 tháng đạt 17.350 ha, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Cây lâm nghiệp trồng phân tán 11 tháng đạt 4.100 ngàn cây, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước.

     3. Thủy sản

     Ước tính sản lượng thủy sản tháng 11 đạt 4.352,8 tấn; 11 tháng đạt 71.667,1 tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia ra: Cá đạt 57.746,3 tấn, tăng 8,3%; tôm đạt 4.749,4 tấn, tăng 5,4%; thủy sản khác đạt 9.171,4 tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.

     a. Khai thác

     Thời tiết các tháng cuối năm có diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng đến khai thác hải sản của bà con ngư dân. Dự báo sản lượng khai thác các tháng cuối năm có mức tăng thấp hơn so với các tháng trước. Ước tính tháng 11 sản lượng khai thác thực hiện 3.770,4 tấn; 11 tháng thực hiện 60.195,5 tấn, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 50.382,2 tấn, tăng 8,5%; tôm các loại 989,8 tấn, tăng 3,0%; thuỷ sản khác 8.823,5 tấn, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Sản phẩm chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 57.024,8 tấn, tăng 8,4%; khai thác nội địa 3.170,7 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước.

     b. Nuôi trồng

     Tháng 11, các hộ nuôi trồng ở các vùng trũng, thấp dễ bị ngập nước khi có mưa lớn đã khẩn trương thu hoạch sản phẩm; đồng thời, tiến hành tu sửa lại hồ, ao nhằm hạn chế thất thoát trong mùa mưa bão và chuẩn bị cung cấp sản phẩm thủy sản trong dịp Tết Nguyên đán sắp đến. Ước tính tháng 11, sản lượng nuôi trồng thu hoạch 582,4 tấn; 11 tháng thu hoạch 11.471,6 tấn, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 7.364,1 tấn, tăng 6,9%; tôm các loại 3.759,6 tấn, tăng 6,0%; thuỷ sản khác 347,9 tấn, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo mặt nước nuôi: Nuôi nước lợ 4.246,3 tấn, tăng 4,1%; nuôi nước ngọt 7.225,3 tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước.

     4. Công nghiệp

     Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 11/2018 ước tính tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 9,4% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2018 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,1% so với cùng kỳ, trong đó: ngành khai khoáng tăng 6,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,3%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 5,6%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,4%.

     Chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính thực hiện 11 tháng năm 2018 của một số ngành công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như sau: Ngành sản xuất trang phục tăng 12,7%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 9,5%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 8,6%; ngành khai khoáng khác tăng 6,2%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,6%; ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,8%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 3,7%; ngành in, sao chép bản ghi các loại tăng 3,6%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 3,0%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 0,6% so với cùng kỳ; ngành sản xuất đồ uống giảm 3,9% (giảm chủ yếu ở ngành sản xuất bia của Công ty cổ phần  Bia Hà Nội - Quảng Bình, do tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn khó khăn nên sản xuất của Công ty phụ thuộc nhiều vào Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội - đơn vị chiếm trên 60% vốn điều lệ của Công ty).

     Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước tính thực hiện 11 tháng năm 2018 như sau: Áo sơ mi đạt 12,5 triệu cái, tăng 11,3%; dăm gỗ đạt 328,7 nghìn tấn, tăng 11,4%; clinker thành phẩm đạt 3,3 triệu tấn, tăng 10,3%; đá xây dựng đạt 2,7 triệu m3, tăng 5,5%; gạch xây dựng bằng đất sét nung đạt 229,3 triệu viên, tăng 5,1%; xi măng đạt 1,6 triệu tấn, tăng 6,3%; nước máy đạt 7,7 triệu m3, tăng 4,8%; điện thương phẩm đạt 721 triệu Kwh, tăng 5,3%; bia đóng chai đạt 15,9 triệu lít, giảm 11,6%; tinh bột sắn đạt 8.500 tấn, giảm 50,1% so với cùng kỳ (giảm chủ yếu do những tháng đầu năm các nhà máy sản xuất tinh bột sắn ngừng sản xuất theo mùa vụ sớm hơn năm trước do thiếu nguyên liệu, đến tháng 9 các nhà máy tinh bột sắn đã sản xuất trở lại).

     Nhìn chung, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong 11 tháng năm 2018 có mức tăng trưởng khá, với xu hướng tích cực, tháng sau tăng trưởng cao hơn tháng trước. Thời gian qua, các cấp, các ngành tích cực tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ vay vốn, mặt bằng và các chương trình thiết thực như cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư, các giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Do đó, mặc dù từ đầu năm đến nay, trong ngành công nghiệp chưa có dự án lớn đi vào sản xuất, nhưng sản xuất công nghiệp đã duy trì mức tăng trưởng khá ổn định.

     5. Vốn đầu tư

     So với các năm trước, thời tiết những tháng cuối năm nay ít mưa lũ nên thuận lợi cho việc thi công công trình. Nhờ đó, các đơn vị thi công đã đẩy nhanh tiến độ thi công. Khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 11 năm 2018 ước tính thực hiện 336,9 tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2017. Tính chung 11 tháng năm 2018, khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh ước tính thực hiện 3.380,1 tỷ đồng, tăng 2,0% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, vốn ngân sách Trung ương quản lý thực hiện 925,4 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương quản lý thực hiện 2.454,7 tỷ đồng.

     Vốn đầu tư Nhà nước quản lý 11 tháng năm 2018 phân theo ngành kinh tế như sau: Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản thực hiện 290,8 tỷ đồng, giảm 12,1%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thực hiện 134,5 tỷ đồng, tăng 1,5%; ngành sản xuất và phân phối điện nước thực hiện 44,7 tỷ đồng, giảm 3,6%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải thực hiện 60,2 tỷ đồng, tăng 1,7%; ngành thương nghiệp thực hiện 44,5 tỷ đồng, tăng 1,2%; ngành vận tải kho bãi thực hiện 1.898,2 tỷ đồng, tăng 4,0%; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống thực hiện 37,7 tỷ đồng, giảm 6,1%; ngành thông tin truyền thông thực hiện 14,4 tỷ đồng, giảm 6,0%; ngành hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ thực hiện 70,3 tỷ đồng, giảm 11,3%; ngành hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ thực hiện 37,5 tỷ đồng, tăng 2,5%; ngành an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước thực hiện 283,2 tỷ đồng, tăng 1,6%; ngành giáo dục và đào tạo thực hiện 210,5 tỷ đồng, tăng 26,8%; ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội thực hiện 170,4 tỷ đồng, tăng 2,6%; ngành nghệ thuật, vui chơi và giải trí thực hiện 36,6 tỷ đồng, giảm 20,3%; ngành hoạt động dịch vụ khác thực hiện 25,6 tỷ, giảm 5,1%; ngành hoạt động dịch vụ cá nhân cộng đồng thực hiện 21,0 tỷ đồng, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2017.

     Trong thời gian qua, các công trình/dự án có vốn đầu tư nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện đúng tiến độ, đặc biệt là các công trình/dự án về giao thông; thủy lợi; quản lý nhà nước; giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, nhất là đối với các công trình/dự án có khối lượng vốn lớn trên địa bàn tỉnh như: Trụ sở làm việc HĐND - UBND thành phố Đồng Hới; Trụ sở làm việc Thành ủy Đồng Hới; Công trình quốc phòng; Cầu Nhật Lệ 2; Đê, kè Lý Hoà; Dự án củng cố nâng cấp kè tả sông Gianh (đoạn qua thị xã Ba Đồn); Dự án hạ tầng kỹ thuật tạo quỹ đất khu dân cư phía Nam đường Hùng Vương, thị xã Ba Đồn; Dự án cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương (Dự án LRAMP) tỉnh Quảng Bình...

     Hiện nay, các đơn vị đang khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình kỹ thuật dân dụng, cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra, đồng thời hoàn thành các công trình/dự án sớm đưa vào sử dụng. Trong thời gian tới, tiến độ các công trình/dự án có vốn đầu tư nhà nước trên địa bàn được đảm bảo do nhà thầu, chủ đầu tư chủ động hơn trong quá trình thi công thực hiện công trình/dự án, bên cạnh đó, công tác quản lý, thẩm định cũng như giải ngân nguồn vốn XDCB được các cấp, các ngành quan tâm.

     6. Thương mại, dịch vụ

     a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

     Cuối năm thị trường điện máy luôn sôi động do nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng tăng mạnh. Dịp này, các nhà bán lẻ cũng đưa ra nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn để kích cầu và tăng doanh số. Hiện nay, hầu hết các cửa hàng điện máy đều tung ra các chương trình giảm giá trực tiếp trên sản phẩm từ 15 - 30% đối với nhiều mặt hàng. Một số cửa hàng liên kết với ngân hàng thực hiện chương trình mua trả góp để hỗ trợ khách hàng, qua đó nhằm tăng doanh thu. Dự báo, từ nay đến hết tháng 12, thị trường điện máy sẽ ngày càng sôi động sức mua sẽ tăng mạnh khoảng 30 - 40% so với các tháng trong năm.

     Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 11 ước tính đạt 1.702,5 tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 11 tháng tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 18.162,6 tỷ đồng, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước.

     Phân theo loại hình kinh tế:

     Kinh tế Nhà nước doanh thu tháng 11 ước tính đạt 101,3 tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 54,3% so với cùng kỳ; 11 tháng doanh thu đạt 1.066,5 tỷ đồng, tăng 39,0% so với cùng kỳ. Đây là thành phần kinh tế có mức tăng cao nhất, nguyên nhân do doanh thu của Công ty Xăng dầu Quảng Bình tăng cao.

     Kinh tế ngoài nhà nước doanh thu tháng 11 ước tính đạt 1.601,2 tỷ đồng, tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 12,4% so với cùng kỳ; 11 tháng doanh thu đạt 17.096,1 tỷ đồng, tăng 9,8% so với cùng kỳ.

     Phân theo nhóm ngành hàng: Tháng 11, tất cả các nhóm hàng hoá đều tăng so với tháng trước, tăng cao nhất là nhóm hàng may mặc tăng 5,6%, nguyên nhân do hàng may mặc mùa thu đông khá đa dạng, phong phú, cùng với nhu cầu thị trường tăng cao; tiếp đến là nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình có mức tăng cao thứ 2, với mức tăng 4,1%.

     Các nhóm còn lại có mức tăng cụ thể như sau: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 2,4%; nhóm vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 3,3%; nhóm gỗ  và vật liệu xây dựng tăng 0,4%; nhóm ô tô các loại tăng 1,4%; nhóm phương tiện đi lại tăng 1,4%; nhóm xăng dầu các loại tăng 0,9%; nhóm nhiên liệu khác tăng 1,7%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 1,9%; nhóm hàng hóa khác tăng 3,7%; nhóm sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ tăng 2,8% so với tháng trước.

     b. Lưu trú, ăn uống và du lịch

     Tháng 11, trong khi doanh thu dịch vụ lưu trú tiếp tục giảm so với tháng trước theo đúng chu kỳ của mùa vụ du lịch thì dịch vụ ăn uống đã tăng trở lại do nhu cầu ăn uống ngoài gia đình của khu vực dân cư tăng lên.

     - Dịch vụ lưu trú: Ước tính doanh thu lưu trú tháng 11 đạt 11,2 tỷ đồng, giảm 15,7% so với tháng trước và tăng 21,8% so với cùng kỳ; 11 tháng doanh thu đạt 162,2 tỷ đồng, tăng 14,8% so với cùng kỳ.

     Số lượt khách lưu trú tháng 11 đạt 51.811 lượt khách, giảm 11,5% so với tháng trước và tăng 24,9% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 760.815 lượt khách, tăng 17,6% so với cùng kỳ. Số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 11 đạt 11.248 lượt khách, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 185,8% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 104.236 lượt khách, tăng 84,1% so với cùng kỳ.

     Ngày khách tháng 11 ước tính đạt 74.598 ngày khách, giảm 8,2% so với tháng trước và tăng 56,3% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 970.885 ngày khách, tăng 27,9% so với cùng kỳ.

     - Dịch vụ ăn uống: Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 11 ước tính đạt 159,3 tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 23,7% so với cùng kỳ; 11 tháng doanh thu đạt 1.810,9 tỷ đồng, tăng 15,5% so với cùng kỳ.

     - Dịch vụ du lịch lữ hành:

     Tháng 11, một số tour du lịch sinh thái như: Hang Tú Làn, Thung lũng Sinh Tồn - Hang Thủy Cung, Thung lũng Hamada… đã bắt đầu khai thác trở lại). Nhưng do các tour nằm trong hệ thống hang Sơn Đoòng tiếp tục dừng khai thác nên hoạt động du lịch lữ hành giảm nhẹ so tháng trước. Ước tính tháng 11 doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành đạt 8,7 tỷ đồng, giảm 2,1% so với tháng trước và tăng 0,7% so với cùng kỳ; 11 tháng doanh thu đạt 258,1 tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ.

     Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 11 ước tính đạt 29.185 lượt khách, giảm 3,2% so với tháng trước và tăng 27,0% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 800.180 lượt khách, tăng 13,6% so với cùng kỳ.

     Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 11 ước đạt 11.693, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 106,6% so với cùng kỳ; 11 tháng ước đạt 152.873 lượt khách, tăng 67,6% so với cùng kỳ.

     c. Hoạt động dịch vụ khác

     Hoạt động dịch vụ tháng 11 tiếp tục có mức tăng cao, đặc biệt ở một số nhóm dịch vụ phục vụ hôn lễ, dịch vụ làm đẹp, dịch vụ cho thuê xe, đồ dùng cá nhân, dịch vụ giải trí. Ước tính doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 11 đạt 92,9 tỷ đồng, tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 15,9% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 959,9 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ.

     Doanh thu 11 tháng phần lớn các nhóm hàng dịch vụ đều tăng so với cùng kỳ. Tăng cao nhất là nhóm dịch vụ khác, tăng 16,3%; tiếp đến nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 13,5%; nhóm dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 13,2%; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 12,7%; nhóm dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 10,7%; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 7,4%. Riêng nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước.

     d. Vận tải

     Trong thời gian qua tỉnh đã huy động từ nhiều nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, đặc biệt từ nguồn vốn xã hội hóa. Nhờ đó, cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, các cơ sở, doanh nghiệp kinh doanh vận tải đã đầu tư nâng cấp, mua sắm mới phương tiện vận tải, nâng cao chất lượng phục vụ… Do đó, ngành vận tải ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung.

     Tổng doanh thu vận tải tháng 11 ước tính đạt 312,4 tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước. Ước tính 11 tháng doanh thu đạt 3.126,8 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 551,8 tỷ đồng, tăng 10,2%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 2.199,6 tỷ đồng, tăng 9,8%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 375,4 tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ.

     Tổng số hành khách vận chuyển tháng 11 ước tính đạt 1,8 triệu hành khách, tăng 7,1% so với tháng trước; 11 tháng đạt 22,5 triệu hành khách, tăng 9,3% so với cùng kỳ. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 11 ước tính đạt 84,8 triệu hk.km, tăng 4,2% so với tháng trước; 11 tháng đạt 1.024,9 triệu hk.km, tăng 9,7% so với cùng kỳ.

     Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 11 ước tính đạt 1,6 triệu tấn, tăng 0,9% so với tháng trước; 11 tháng đạt 22,0 triệu tấn, tăng 9,5% so với cùng kỳ. Tổng khối lượng hàng hoá luân chuyển tháng 11 ước tính đạt 105,1 triệu tấn.km, tăng 1,0% so với tháng trước; 11 tháng đạt 1.131,9 triệu tấn.km, tăng 9,4% so với cùng kỳ.

     e. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

     * Chỉ số giá tiêu dùng

     Chỉ số giá tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tháng 11 năm 2018 giảm 0,32% so với tháng trước, tăng 3,41% so với cùng kỳ năm trước, tăng 3,21% so với tháng 12 năm trước; tăng 14,12% so với kỳ gốc 2014. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 11 tháng năm 2018 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,93% (trong đó: nhóm hàng hóa tăng 2,61%; nhóm dịch vụ tăng 3,44%).

     Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 5 nhóm tăng, 1 nhóm không đổi và 5 nhóm giảm so với tháng trước, cụ thể như sau: Nhóm may mặc mũ nón giày dép tăng 0,22%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,10%; nhóm giáo dục tăng 0,02%;  nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,05%; nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số không đổi; nhóm hàng ăn và dịch vụ uống giảm 0,01%; nhóm đồ uống thuốc lá giảm 0,10%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 1,51%; nhóm giao thông giảm 1,51%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,09%.

     * Chỉ số giá vàng 99,99%

     Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước, giá vàng tháng 11 giao động quanh mức 3,50 triệu đồng/chỉ. Bình quân tháng 11/2018 giá vàng tăng 1,66% so với tháng trước, so với kỳ gốc 2014 tăng 6,46%, giảm 0,94% so cùng tháng năm trước, giảm 0,42% so tháng 12 năm trước. Bình quân 11 tháng tăng 3,11% so với cùng kỳ.

     * Chỉ số giá đô la Mỹ (USD)

     Đô la Mỹ tháng 11 có giá bình quân 23.279 đồng/USD, giảm 0,08% so với tháng trước, so với kỳ gốc 2014 tăng 6,62%; tăng 2,44% so cùng tháng năm trước; tăng 2,47% so tháng 12 năm trước và bình quân 11 tháng tăng 0,94% so với cùng kỳ.

     7. Thu, chi ngân sách Nhà nước

     Tổng thu ngân sách trên địa bàn 11 tháng năm 2018 ước tính thực hiện 3.368,6 tỷ đồng, bằng 96,2% dự toán địa phương giao và tăng 12,5% so với cùng kỳ; trong đó, thu nội địa 3.178,2 tỷ đồng, bằng 94,3% dự toán địa phương giao, tăng 10,4% so với cùng kỳ; thu thuế xuất nhập khẩu 190,4 tỷ đồng, tăng 46,5% dự toán địa phương giao, tăng 65,6% so với cùng kỳ.

     Trong tổng số thu cân đối ngân sách 11 tháng năm 2018, có 11/16 khoản thu đạt tiến độ (91,7%) dự toán năm, là thu từ DN có vốn đầu tư nước ngoài đạt 431,6%; Thu lệ phí trước bạ đạt 109%; Thuế bảo vệ môi trường đạt 124,4%; Thu tiền thuê đất đạt 107%; Thu phí lệ phí đạt 93,6%; Thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đạt 120,2%; Thu khác ngân sách tính cân đối đạt 118,9%; Thu từ xổ số kiến thiết đạt 92,3%; Thu thuế thu nhập cá nhân đạt 128,1%; Thu tiền sử dụng đất đạt 92,3%; Thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đạt 93,5%. Còn lại 5/16 khoản không đạt tiến độ của năm.

     Tổng chi NSNN trên địa bàn 11 tháng năm 2018 ước tính thực hiện 10.145 tỷ đồng, tăng 17,1% so với cùng kỳ. Trong đó chi đầu tư phát triển ước thực hiện 3.429,8 tỷ đồng, tăng 37,1%; chi thường xuyên ước thực hiện 6.715,2 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ.

     Nhìn chung, nhờ sự bổ sung kịp thời từ ngân sách Trung ương nên các khoản chi ngân sách địa phương trên địa bàn tỉnh đã được đảm bảo theo kế hoạch đề ra, các khoản thu ngân sách nhà nước được tập trung đầy đủ và điều tiết đúng theo tỷ lệ cho các cấp ngân sách.

     II. XÃ HỘI

     1. Giáo dục, đào tạo

     a. Giáo dục

     Bước vào năm học mới, toàn ngành đã tập trung thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: tăng cường kỷ cương về giáo dục và đào tạo; rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới trường, lớp và cơ sở giáo dục trong toàn tỉnh; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; chuẩn bị các điều kiện để thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông; đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong giáo dục phổ thông; tăng cường các nguồn lực, bảo đảm các điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục.

     Sở Giáo dục và Đào tạo đã tích cực phối hợp với các sở, ngành, địa phương tham mưu UBND tỉnh ban hành các kế hoạch nhằm tăng cường cơ sở vật chất trường học đáp ứng yêu cầu thực hiện lộ trình đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Đến nay, tỷ lệ phòng học được kiên cố hóa ở các trường tiểu học đạt 77,27%, THCS 90,18%, THPT 93,63%; tỷ lệ kiên cố hóa  phòng học bộ môn đạt 86%; bình quân toàn tỉnh, tỷ lệ kiên cố hóa đối với cấp học phổ thông của phòng học thông thường, bộ môn đạt 83,5%; tỷ lệ kiên cố hóa các phòng chức năng, bộ môn, thư viện, thiết bị, thí nghiệm thực hành đạt 71%. Sở Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu UBND tỉnh triển khai rà soát thực trạng, nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị trường học và công tác dồn ghép các điểm trường lẻ của cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông; triển khai thực hiện mua sắm kịp thời bổ sung thiết bị dạy học cho các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh với tổng giá trị gần 10,5 tỷ đồng để phục vụ công tác chuẩn bị triển khai áp dụng chương trình, sách giáo khoa mới.

     Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mới, ngay sau ngày tựu trường, các trường học đã tổ chức ôn tập, thi lại cho học sinh; rà soát tuyển sinh đầu cấp theo kế hoạch, quy chế, quy định và hướng dẫn của các cấp quản lý giáo dục; quan tâm đặc biệt đến những học sinh tiểu học, THCS, học sinh dân tộc thiểu số có nguy cơ bỏ học để vận động đến trường. Các đơn vị cũng tích cực tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng và sửa chữa cơ sở vật chất trường học; tu sửa, vệ sinh phong quang trường lớp, củng cố thư viện, phòng thí nghiệm thực hành, phòng học bộ môn, phòng chức năng. Đồng thời, tiếp tục tổ chức phát động quyên góp quần áo, sách vở, kinh phí cho học sinh vùng khó khăn; quan tâm giúp đỡ những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh là con các đối tượng chính sách, học sinh khuyết tật, bảo đảm cho các em được hưởng đầy đủ chế độ chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước. Sở Giáo dục và Đào tạo đã có công văn gửi UBND các huyện, thị xã, thành phố, các Phòng Giáo dục và Đào tạo, các trường trực thuộc và yêu cầu các địa phương, các cơ sở giáo dục quán triệt thực hiện nghiêm các quy định; trong đó, phải thông báo công khai đến cha mẹ học sinh để phân biệt rõ khoản thu theo quy định và khoản thu theo thoả thuận hoặc đóng góp tự nguyện. Sở đã thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra các cơ sở giáo dục trong toàn tỉnh về vấn đề thu, chi để phát hiện sai phạm và kiên quyết xử lý người đứng đầu theo quy định của pháp luật và của tỉnh. Đồng thời, đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân cùng với ngành Giáo dục và Đào tạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các khoản thu trong các trường học; đơn vị nào thực hiện các khoản thu và quản lý, sử dụng các khoản thu trái với quy định, thủ trưởng đơn vị đó phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.

     b. Đào tạo

     Bước vào năm học mới 2018 - 2019, cùng với toàn ngành giáo dục tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 29, Trường Đại học Quảng Bình đã tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản: tăng cường công tác quản lý, nâng cao chất lượng giảng dạy và đạo đức nhà giáo; đổi mới công tác tuyển sinh đáp ứng nhu cầu xã hội; tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục; chủ động và tích cực mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu khoa học. Năm học 2018 - 2019, chỉ tiêu tuyển sinh Trường Đại học Quảng Bình 1.710 chỉ tiêu hệ đại học, cao đẳng hệ chính quy; trong đó, hệ đại học 1.240 chỉ tiêu, cao đẳng sư phạm 90 chỉ tiêu và cao đẳng ngoài sư phạm 380 chỉ tiêu. Kết quả xét tuyển đợt I đã có 211 học sinh nhập học hệ đại học và cao đẳng; trong đó: 187 học sinh nhập học hệ đại học, 22 học sinh nhập học hệ cao đẳng sư phạm và 2 học sinh nhập học hệ cao đẳng ngoài sư phạm.

     Các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và các trường trung cấp chuyên nghiệp tiếp tục ổn định và phát triển, mở rộng quy mô các loại hình đào tạo, phát triển thêm một số ngành nghề đào tạo mới, đáp ứng nhu cầu học tập nghề nghiệp của con em nhân dân. Tiếp tục triển khai nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo theo nhu cầu của xã hội; tích cực đổi mới chương trình đào tạo, giáo trình, phương pháp dạy học để sinh viên có thể đạt chuẩn đầu ra khi tốt nghiệp. Hiện tại, các trường trên toàn tỉnh đang thông báo tuyển sinh đào tạo theo nhu cầu xã hội; tăng cường hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu khoa học giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp thông qua việc việc ký kết hợp đồng đạo tạo, sử dụng nhân lực.

     2. Công tác y tế

     a. Y tế cơ sở

     Toàn tỉnh hiện có 159/159 xã/phường/thị trấn có trạm y tế; 100% trạm y tế xã, phường có bác sỹ làm việc; 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động được trả phụ cấp ổn định; 100% trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh; toàn tỉnh có 136/159 (đạt tỷ lệ 85,5%) trạm y tế xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế.

     Về hoạt động, nhìn chung các trạm y tế đã tuân thủ thực hiện các chế độ chuyên môn theo quy định trong khám chữa bệnh, triển khai có hiệu quả các chương trình y tế tại cộng đồng. Đội ngũ nhân viên y tế thôn bản được quản lý và phát huy hiệu quả công tác, hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn đạt cao; công tác giám sát dịch bệnh thực hiện chặt chẽ, đặc biệt là sốt rét, sốt xuất huyết và các dịch bệnh đường tiêu hoá.

     b. Công tác phòng chống các bệnh dịch lây

     Theo báo cáo của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, trong tháng 10/2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 13 trường hợp Tay - chân - miệng; 209 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 263 trường hợp tiêu chảy; 13 trường hợp lỵ trực trùng; 11 trường hợp lỵ a míp; 2 trường hợp viêm gan vi rút B; 1 trường hợp viêm gan vi rút C; 7 trường hợp viêm gan vi rút khác; 38 trường hợp thủy đậu; 6 trường hợp quai bị; 855 trường hợp cúm; 8 trường hợp sốt rét; 1 trường hợp lao phổi; 9 trường hợp bệnh không thuộc danh mục. Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 31/10/2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 28 trường hợp Tay - chân - miệng; 375 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 3.330 trường hợp tiêu chảy; 116 trường hợp lỵ trực trùng; 74 trường hợp lỵ a míp; 1 trường hợp viêm gan vi rút A; 9 trường hợp viêm gan vi rút B; 3 trường hợp viêm gan vi rút C; 111 trường hợp viêm gan vi rút khác; 717 trường hợp thủy đậu; 691 trường hợp quai bị; 9.192 trường hợp cúm; 7 trường hợp Lao phổi; 1 trường hợp thương hàn; 33 trường hợp sốt rét; 11 trường hợp bệnh không thuộc danh mục. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra.

     c. Chương trình phòng chống sốt rét

     Chương trình phòng chống sốt rét - nội tiết, đã triển khai tích cực các biện pháp phòng chống sốt rét ở các địa bàn trọng điểm. Trong tháng 10/2018, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 125 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 8 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 4.106 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,16%. Lũy tích từ đầu năm đến hết tháng 10/2018, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 1.813 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 100 người, trong đó có không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét. Tiến hành xét nghiệm lam và test cho 42.233 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,19%.

     d. Tình hình nhiễm HIV/AIDS

     Từ đầu năm đến 31/10/2018, trên địa bàn tỉnh phát hiện 40 người nhiễm mới HIV, 53 người chuyển sang AIDS, 5 người tử vong do AIDS. Tính đến ngày 31/10/2018, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.390 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 439 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 140 người. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động về thông tin - giáo dục - truyền thông, can thiệp giảm tác hại và chương trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Duy trì các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục, chương trình an toàn truyền máu trong các dịch vụ y tế.

     e. Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm

     Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo các cơ quan chức năng, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Qua kiểm tra đã xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến thực phẩm. Theo báo cáo của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh, lũy kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 1 vụ ngộ độc thực phẩm với 17 ca mắc tại xã Cảnh Dương (huyện Quảng Trạch) các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời nên không có tử vong xảy ra, ngoài ra còn có 475 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

     3. Hoạt động văn hoá, thể dục thể thao

     a. Hoạt động văn hoá

     Công tác tuyên truyền bề nổi, hoạt động nghệ thuật quần chúng và phong  trào văn hóa văn nghệ cơ sở tiếp tục gắn với các hoạt động kỷ niệm 5 năm ngày mất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (4/10/2013 - 4/10/2018) và kỷ niệm 88 năm Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/1930 - 20/10/2018, ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11... Theo đó, toàn tỉnh treo móc, thay mới trên 1.500 băng rôn, cờ các loại, tổ chức trên 1.200 buổi dạ hội văn nghệ. Sở Văn hóa và Thể thao chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh tổ chức các hoạt động tuyên truyền, văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao trong dịp kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11) và phối hợp tổ chức Ngày hội đại đoàn kết dân tộc ở khu dân cư.

     Liên ngành Sở Văn hóa và Thể thao, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức Hội thi Tuyên truyền phòng, chống bạo lực gia đình tỉnh Quảng Bình năm 2018. Hội thi có sự tham gia của gần 130 thí sinh thuộc 8 đội đến từ 8 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh. Hội thi Tuyên truyền phòng, chống bạo lực gia đình tỉnh Quảng Bình năm 2018 nhằm tuyên truyền, củng cố, nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ, hội viên phụ nữ và nhân dân trên địa bàn, góp phần nâng cao hiệu quả phòng chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới; đồng thời trau dồi kỹ năng, thể hiện khả năng xử lý các tình huống trong cuộc sống gia đình để cùng nhau xây dựng gia đình Việt Nam với các truyền thống văn hóa tốt đẹp. 

     Hưởng ứng Năm du lịch quốc gia 2018 Hạ Long - Quảng Ninh, tại tỉnh Quảng Ninh đã diễn ra Hội diễn đàn, hát dân ca 3 miền. Đoàn nghệ thuật quần chúng Quảng Bình tham gia Hội diễn với chương trình nghệ thuật tổng hợp gồm các tổ khúc dân ca, hò khoan Lệ Thủy, chầu văn, hòa tấu nhạc cụ dân tộc… được dàn dựng công phu, hoành tráng. Kết thúc hội diễn, Đoàn nghệ thuật quần chúng tỉnh Quảng Bình giành huy chương vàng toàn đoàn, các tiết mục tham gia giành 1 huy chương vàng và 3 huy chương bạc.

     Tối 5/11/2018, tại Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh Hà Tĩnh đã diễn ra lễ tổng kết, bế mạc và trao giải Liên hoan Ca trù toàn quốc năm 2018. Đoàn Quảng Bình tham gia liên hoan có gần 20 nghệ nhân, diễn viên với 7 tiết mục biểu diễn. Tổng kết liên hoan, đoàn Quảng Bình được trao giải A cho tập thể xuất sắc, một giải A cá nhân (ca nương Thanh Oai) và 1 giải B cá nhân (ca nương Cẩm Vân). 15 đơn vị tham gia liên hoan cũng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tặng bằng khen.

     Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa nổi bật với sự kiện Lễ hội cầu ngư được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, là niềm vinh dự, tự hào của tỉnh Quảng Bình. Lễ hội cầu ngư ở Quảng Bình diễn ra với nhiều hình thức tâm linh và diễn xướng dân gian, hàm chứa nhiều giá trị văn hóa và có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước; sự cố kết cộng đồng, biểu dương sức mạnh của ngư dân vùng biển. Đồng thời, Lễ hội là dịp để ngư dân khẳng định niềm tin, ý chí, vượt qua thử thách để làm chủ vùng biển quê hương, Tổ quốc và vươn lên làm giàu từ biển trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

     Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, thể thao trên địa bàn được đẩy mạnh. Trong tháng 10, thanh tra Sở Văn hóa và Thể Thao đã thực hiện 5 cuộc thanh tra, thanh tra 75 đối tượng, lập 5 biên bản vi phạm hành chính, đồng thời đề nghị xử phạt và ra quyết định xử phạt 5 đối tượng với số tiền 92 triệu đồng, trong đó kiến nghị UBND tỉnh xử phạt vi phạm hành chính 80 triệu đồng đối với 01 đối tượng; ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính 12 triệu đồng đối với 04 đối tượng.

     Các địa phương đã chú trọng tập trung xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Hoạt động văn hóa ở cơ sở được tổ chức với nhiều nội dung và hình thức phong phú đã góp phần khôi phục, phát huy giá trị và tôn vinh những nét đẹp văn hoá truyền thống của địa phương.

     b. Hoạt động thể dục thể thao

     - Thể thao quần chúng

     Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại’’ có bước phát triển mới về chất lượng, góp phần đáng kể vào việc duy trì và nâng cao thể chất cho nhân dân. Số người luyện tập thể thao thường xuyên ước đạt 31,0%, tăng 0,3% so với năm 2017, số gia đình thể thao ước đạt 25,4%, tăng 0,2% so với năm 2017.

     Ban chỉ đạo Đại hội TDTT tỉnh Quảng Bình lần thứ VIII (2017 - 2018) đã tổ chức Hội nghị tổng kết Đại hội TDTT tỉnh Quảng Bình lần thứ VIII. Ban tổ chức đã trao giải toàn đoàn cho các địa phương, đơn vị giành thành tích cao, đoàn thể thao huyện Lệ Thủy giành giải Nhất, thành phố Đồng Hới giành giải Nhì,  huyện Quảng Ninh giành giải Ba. Trưởng ban Chỉ đạo Đại hội TDTT tỉnh trao tặng Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho 6 tập thể và 4 cá nhân có thành tích xuất sắc tại Đại hội TDTT tỉnh lần thứ VIII (2017 - 2018); trao Cờ thi đua của Ban Chỉ đạo Đại hội TDTT tỉnh cho 12 đơn vị, địa phương đã tổ chức thành công Đại hội TDTT cấp cơ sở; 06 đơn vị tổ chức tốt Đại hội TDTT cấp huyện và 02 đơn vị tổ chức xuất sắc Đại hội TDTT cấp huyện. Thông qua tổ chức Đại hội Thể dục thể thao các cấp đã tạo nên không khí hào hứng phấn khởi trong các dịp lễ hội, các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước; đáp ứng được yêu cầu, phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đặc biệt là thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể thao gương Bác Hồ vĩ đại”; và hoạt động xã hội hóa TDTT được đẩy mạnh; hệ thống sân bãi, trang thiết bị tập luyện TDTT được tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào tập luyện TDTT ở Quảng Bình ngày càng phát triển.

     - Thể thao thành tích cao

     Thể thao thành tích cao tỉnh Quảng Bình ngày càng có những bước tiến vững chắc trên đấu trường toàn quốc và quốc tế. Đáng chú ý là tại Đại hội Thể thao Châu Á lần thứ 18 (Asiad 18); VĐV Nguyễn Huy Hoàng đã giành được HCB ở nội dung bơi 1500m tự do nam với thành tích 15 phút 01 giây 63; HCĐ nội dung 800m tự do nam; VĐV đua thuyền Rowing Lường Thị Thảo đã cùng đồng đội đã xuất sắc giành HCV nội dung thuyền 4 nữ mái chèo hạng nhẹ với thành tích 7 phút 01 giây 11; VĐV Hoàng Thị Ngọc cùng đồng đội đã giành được HCĐ nội dung chạy tiếp sức 4 x 400m nữ với thành tích 3 phút 33 giây 23. Kết thúc các nội dung thi đấu tại ASIAD, các vận động viên của tỉnh đã xuất sắc giành được 01 Huy chương Vàng, 01 Huy chương Bạc và 02 Huy chương Đồng. Tiếp đến tại giải Olympic trẻ 2018, vận động viên Nguyễn Huy Hoàng đã giành HCV nội dung bơi 800m tự do nam tại Olympic trẻ mùa hè Buenos Aires 2018 (diễn ra ở Argentina), đồng thời phá sâu kỷ lục quốc gia chính vận động viên nắm giữ.

     Tính đến nay, thể thao thành tích cao đã đạt được 146 Huy chương các loại, trong đó có 61 HCV, 41 HCB và 44 HCĐ. Trong đó đã xuất sắc đạt được 29 Huy chương quốc tế (13 HCV, 7 HCB và 9 HCĐ).

     4. Tình hình an toàn giao thông và cháy nổ

     a. An toàn giao thông

     Theo báo cáo của Công an tỉnh, tháng 10 năm 2018 toàn tỉnh đã xảy ra 22 vụ tai nạn giao thông, tăng 2 vụ so với tháng 10 năm 2017, trong đó đường bộ 22 vụ, tăng 2 vụ; đường sắt, đường thủy không xảy ra tai nạn, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 9 người, tăng 3 người so với tháng 10 năm 2017; trong đó đường bộ chết 9 người, tăng 3 người; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao 16 người, giảm 1 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ bị thương 16 người, giảm 1 người; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2017.

      Lũy kế 10 tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh đã xảy ra 177 vụ tai nạn giao thông, giảm 18 vụ so với cùng kỳ năm 2017, trong đó đường bộ 174 vụ, giảm 16 vụ so cùng kỳ; đường sắt xảy ra 2 vụ, giảm 3 vụ so cùng kỳ; đường thủy xảy ra 01 vụ, tăng 01 vụ. Số người chết do tai nạn giao thông 80 người, giảm 14 người so cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 79 người, giảm 13 người; đường sắt chết 1 người, giảm 1 người so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra. Số người bị thương do tai nạn giao thông 134 người, giảm 21 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 130 người, giảm 24 người; đường sắt bị thương 4 người, tăng 3 người, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2017.

     b. Tình hình cháy nổ

     Tháng 11 năm 2018 toàn tỉnh đã xảy ra 02 vụ cháy với giá trị thiệt hại 178,5 triệu đồng; trong đó, thành phố Đồng Hới 1 vụ cháy nhà đơn lẻ với giá trị thiệt hại 28,5 triệu đồng; huyện Tuyên Hóa 1 vụ cháy phương tiện vận tải với giá trị thiệt hại 150 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 44 vụ cháy với giá trị thiệt hại 106.040,5 triệu đồng; trong đó, thành phố Đồng Hới 13 vụ với giá trị thiệt hại 1.442,5 triệu đồng; thị xã Ba Đồn 5 vụ với giá trị thiệt hại 116 triệu đồng; huyện Minh Hóa 2 vụ với giá trị thiệt hại 130 triệu đồng; huyện Tuyên Hóa 2 vụ với giá trị thiệt hại 650 triệu đồng; huyện Quảng Trạch 4 vụ với giá trị thiệt hại 500 triệu đồng; huyện Bố Trạch 12 vụ với giá trị thiệt hại 102.902 triệu đồng; huyện Quảng Ninh 2 vụ với diện tích rừng bị cháy là 267 ha; huyện Lệ Thủy 4 vụ với giá trị thiệt hại 300 triệu đồng./.

[Trở về]