THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2018 tỉnh Quảng Bình 
     I. KINH TẾ

     1. Nông nghiệp

     a. Trồng trọt

     Trong tháng 10, các địa phương tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thu hoạch một số loại cây trồng vụ Hè Thu, lúa vụ Mùa nhằm phòng tránh lũ lụt. Cùng với việc thu hoạch sản phẩm cây trồng, các địa phương tập trung cày ải đất chuẩn bị cho vụ Đông Xuân 2018 - 2019, một số nơi đảm bảo điều kiện đã triển khai gieo trồng Đông Xuân sớm. Tiến độ gieo trồng cây hàng năm năm nay nhanh hơn cùng kỳ năm trước, đặc biệt là rau màu vụ Đông Xuân sớm nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng kỳ giáp hạt. Đến ngày 15/10/2018, diện tích gieo trồng cây hàng năm thực hiện 1.000 ha, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngô 50 ha, tăng 400,0%; khoai lang 350 ha, tăng 16,7%; rau các loại 520 ha, tăng 4,0%; cây thức ăn gia súc 80 ha, tăng 300% so với cùng kỳ năm trước.

     b. Chăn nuôi

     Những tháng cuối năm 2018, sản xuất chăn nuôi của các địa phương có chiều hướng phát triển khá. Nhờ giá thịt lợn hơi tăng lên nên người chăn nuôi đầu tư mở rộng quy mô đàn lợn. Chăn nuôi trâu, bò, gia cầm phát triển ổn định. Nhờ chăn nuôi tập trung phát triển khá nhanh theo mô hình trang trại, gia trại nên hệ số xuất chuồng tăng lên, sản lượng xuất chuồng cao hơn năm trước.

     Ước tính 10 tháng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 62.672 tấn, tăng 3,0% so với cùng kỳ. Trong đó: Thịt trâu 1.775 tấn, tăng 4,1%; thịt bò 5.304 tấn, tăng 4,5%; thịt lợn 44.316 tấn, tăng 2,2%; gia cầm 11.277 tấn, tăng 5,1%. Riêng đàn gà, sản lượng xuất chuồng 8.504 tấn, tăng 7,0% so cùng kỳ năm trước.

     Nhìn chung, từ đầu năm đến nay sản xuất chăn nuôi phát triển thuận lợi; dịch bệnh trên vật nuôi được khống chế tốt, không xảy ra các ổ dịch lớn, chủ yếu xảy ra nhỏ lẻ ở các hộ chăn nuôi gia đình; thị trường tiêu thụ và giá các sản phẩm ổn định; chăn nuôi lợn bắt đầu tái đàn khá khi giá thịt lợn hơi tăng cao. Dự báo trong các tháng cuối năm, chăn nuôi lợn có chiều hướng phát triển trở lại nhanh hơn, khả năng xuất chuồng tăng cao, tạo nguồn hàng phục vụ Tết Nguyên đán sắp đến.

     2. Lâm nghiệp

     Đầu tháng 10, các chủ rừng triển khai trồng rừng theo kế hoạch năm 2018; đồng thời tiếp tục đẩy nhanh khai thác gỗ từ rừng trồng (diện tích bị thiệt hại cuối năm 2017) nhằm tạo mặt bằng cho công tác trồng rừng tập trung.

     Ước tính 10 tháng sản lượng gỗ khai thác 370.000 m3, tăng 10,5% so với cùng kỳ; sản lượng củi khai thác 235.700 ste, tăng 17,6; diện tích rừng trồng mới tập trung thực hiện 2.275 ha, tăng 29,5%; diện tích rừng trồng được chăm sóc 16.270 ha, tăng 1,3%; cây lâm nghiệp trồng phân tán 3.490 ngàn cây, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước.

     Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành thực sự quan tâm. Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật được chú trọng, nên các vụ cháy rừng không gây thiệt hại đáng kể.

     Dự báo năm nay kết quả trồng rừng sẽ tăng cao so với năm trước nhằm bổ sung kịp thời diện tích bị đổ gãy do bão gây ra cuối năm 2017.

     3. Thủy sản

     Nhờ các chính sách hỗ trợ phát triển thuỷ sản phát huy tích cực nên kết quả sản xuất ngành thủy sản phát triển khá. Khai thác thủy sản từ đầu năm đến nay cơ bản ổn định; lượng tàu, thuyền có công suất lớn tăng nhanh nên khai thác xa bờ phát triển khá và mang lại hiệu quả cao. Nuôi trồng thủy sản tăng về cả diện tích và năng suất nên sản lượng thu hoạch tăng.

     Ước tính sản lượng thủy sản tháng 10 đạt 5.372,4 tấn, giảm 33,3% so với tháng trước; tháng10 tháng đạt 67.316,3 tấn, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Cá các loại 54.181,9 tấn, tăng 8,9%; tôm các loại 4.585,3 tấn, tăng 5,2%; thủy sản khác 8.549,1 tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước.

     a. Khai thác

     Hiện nay, đang vào mùa mưa bão, thời tiết có nhiều diễn biến phức tạp nên gây ảnh hưởng đến việc khai thác của bà con ngư dân. Theo đó, sản lượng khai thác trong tháng đạt thấp hơn so với các tháng trước. Ước tính tháng 10 sản lượng khai thác đạt 4.424,2 tấn, giảm 27,5% so với tháng trước; 10 tháng khai thác 56.425,1 tấn, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 47.294,2 tấn, tăng 9,3%; tôm các loại 916,2 tấn, tăng 4,3%; thuỷ sản khác 8.214,7 tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Sản phẩm chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 53.656,5 tấn, tăng 8,7%; khai thác nội địa 2.768,6 tấn, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước.

     b. Nuôi trồng

     Hiện nay, các hộ nuôi trồng thuỷ tập trung thu hoạch sản phẩm trước mùa mưa bão, đặc biệt đối với những địa bàn thấp, trũng. Ước tính tháng 10 sản lượng nuôi trồng thu hoạch 948,2 tấn; 10 tháng thu hoạch 10.891,2 tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 6.887,7 tấn, tăng 5,8%; tôm các loại 3.669,1 tấn, tăng 5,5%; thuỷ sản khác 334,4 tấn, bằng 93,0% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo mặt nước: Nước lợ 4.150,4 tấn, tăng 3,7%; nuôi nước ngọt 6.740,8 tấn, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Hiện tại, các hộ nuôi vừa tập trung thu hoạch vừa gia cố bờ kè, đê bao, thực hiện chăm sóc để thu hoạch trong 2 tháng cuối năm, đặc biệt dịp Tết Nguyên đán. 

     4. Công nghiệp

     Sản xuất công nghiệp tháng 10 tăng nhẹ so với tháng trước và duy trì mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ. Ước tính chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) tháng 10 tăng 2,5% so với tháng trước và tăng 9,0% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành khai khoáng tăng 7,6%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,7%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 7,4%. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10/2018 tăng so với tháng cùng kỳ năm trước do có một số sản phẩm chủ yếu sản xuất trong tháng tăng khá cao như: Áo sơ mi cho người lớn; dăm gỗ; thức ăn cho thủy sản; xi măng; clinker.

     Tính chung 10 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành khai khoáng tăng 6,4%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,2%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 5,1%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,5%.  

     Chỉ số sản xuất công nghiệp ước thực hiện 10 tháng năm 2018 của một số ngành công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như sau: Ngành sản xuất trang phục tăng 12,7%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 9,5%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 8,3%; ngành khai khoáng khác tăng 6,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,1%; ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 5,1%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 3,4%; ngành in, sao chép bản ghi các loại tăng 3,1%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,9%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 0,5% so cùng kỳ; ngành sản xuất đồ uống giảm 2,4% (giảm chủ yếu ở ngành sản xuất bia của Công ty Cổ phần Bia Hà Nội - Quảng Bình, do tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn khó khăn).

     Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 10 tháng năm 2018 như sau: Áo sơ mi đạt 11,3 triệu cái, tăng 11,4%; dăm gỗ đạt 299.923 tấn, tăng 11,4%; clinker thành phẩm đạt 2,97 triệu tấn, tăng 10,0%; đá xây dựng đạt 2,5 triệu m3, tăng 5,9%; gạch xây dựng bằng đất sét nung đạt 208,6 triệu viên, tăng 4,9%; xi măng đạt 1,46 triệu tấn, tăng 6,3%; nước máy đạt 7,0 triệu m3, tăng 5,1%; điện thương phẩm đạt 654 triệu Kwh, tăng 5,2%; bia đóng chai đạt 15,1 triệu lít, giảm 9,7%; tinh bột sắn đạt 5.245 tấn, giảm 59,4% so với cùng kỳ (giảm chủ yếu do những tháng đầu năm Nhà máy sản xuất tinh bột sắn ngừng sản xuất theo mùa vụ sớm hơn năm trước do thiếu nguyên liệu, đến tháng 9 các nhà máy tinh bột sắn đã sản xuất trở lại).

     5. Vốn đầu tư

     Vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 10 và 10 tháng năm 2018 tăng so cùng kỳ năm trước do tình hình giải ngân vốn có nhiều cải thiện nên tiến độ thi công các công trình/dự án được đẩy nhanh. Ước tính khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 10 năm 2018 thực hiện 326,3 tỷ đồng, giảm 12,4% so với tháng trước và tăng 0,3% so với tháng cùng kỳ năm 2017. Tính chung 10 tháng năm 2018, khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh thực hiện 3.038,8 tỷ đồng, tăng 2,0% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, vốn ngân sách Trung ương quản lý thực hiện 834,8 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương quản lý thực hiện 2.203,9 tỷ đồng.

     Vốn đầu tư Nhà nước quản lý 10 tháng năm 2018 phân theo ngành kinh tế như sau: Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản thực hiện 263,5 tỷ đồng, giảm 9,0%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thực hiện 122,3 tỷ đồng, giảm 0,4%; ngành sản xuất và phân phối điện nước thực hiện 40,4 tỷ đồng, giảm 0,6%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải thực hiện 54,7 tỷ đồng, tăng 1,3%; ngành thương nghiệp thực hiện 41,2 tỷ đồng, tăng 1,3%; ngành vận tải kho bãi thực hiện 1.717,2 tỷ đồng, tăng 3,3%; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống thực hiện 34,5 tỷ đồng, giảm 4,2%; ngành thông tin truyền thông thực hiện 13,1 tỷ đồng, giảm 4,2%; ngành hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ thực hiện 62,7 tỷ đồng, giảm 5,9%;  ngành hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ thực hiện 33,4 tỷ đồng, tăng 0,3%; ngành an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước thực hiện 247,8 tỷ đồng, tăng 2,9%; ngành giáo dục và đào tạo thực hiện 183,5 tỷ đồng, tăng 20,3%; ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội thực hiện 147,9 tỷ đồng, tăng 2,8%; ngành nghệ thuật, vui chơi và giải trí thực hiện 33,9 tỷ đồng, giảm 15,5%; ngành hoạt động dịch vụ khác thực hiện 23,8 tỷ, giảm 2,2%; ngành hoạt động dịch vụ cá nhân cộng đồng thực hiện 18,9 tỷ đồng, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2017.

     Trong thời gian qua, các công trình/dự án có vốn đầu tư Nhà nước trên địa bàn tỉnh cơ bản thực hiện đúng tiến độ. Trong đó, các công trình/dự án về giao thông; thủy lợi; quản lý nhà nước; giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội; đặc biệt là các công trình sửa chữa, xây dựng trường học, nhà vệ sinh tại các trường được quan tâm, đẩy mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu dạy và học cho giáo viên và học sinh trong năm học mới. Một số công trình/dự án đầu tư xây dựng đảm bảo đúng kế hoạch nhất là đối với các công trình/dự án có khối lượng vốn lớn trên địa bàn tỉnh như: Trụ sở làm việc HĐND-UBND thành phố Đồng Hới; Trụ sở làm việc Thành ủy Đồng Hới; Cầu Nhật Lệ 2; Đê, kè Lý Hoà; Dự án củng cố nâng cấp kè tả sông Gianh (đoạn qua thị xã Ba Đồn); Dự án hạ tầng kỹ thuật tạo quỹ đất khu dân cư phía Nam đường Hùng Vương, thị xã Ba Đồn; Dự án cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương (Dự án LRAMP) tỉnh Quảng Bình...

     Hiện nay, các công trình/dự án có vốn đầu tư nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện được các đơn vị đang khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình kỹ thuật dân dụng, cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh để đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra, đồng thời hoàn thành các công trình/dự án sớm đưa vào sử dụng trước mùa mưa bão, đặc biệt là các công trình giao thông, thuỷ lợi, đê kè chống lũ.

     6. Thương mại, dịch vụ

     a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

     Tháng 10, thị trường bán lẻ hàng hoá bắt đầu sôi động hơn tháng trước do sức mua trong dân cao hơn, đặc biệt ở các mặt hàng hàng may mặc, ô tô, sản phẩm công nghệ, đồ gia dụng… Về nguồn cung thị trường, một số mặt hàng thiết yếu khá dồi dào nguồn cung. Ngoài ra, các cơ sở bán lẻ, những tháng cuối năm thường áp dụng nhiều chính sách khuyến mãi thúc đẩy lưu chuyển hàng tồn kho, nhập về các mặt hàng mới làm cho mức độ lưu chuyển thị trường hàng hoá các tháng cuối năm cao hơn. Bên cạnh đó, các ngành chức năng đã tăng cường công tác quản lý thị trường; tổ chức các đoàn kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại… nhằm bảo vệ người tiêu dùng.

     Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 10 đạt 1.693,0 tỷ đồng, tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 13,9% so với cùng kỳ; 10 tháng tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 16.489,0 tỷ đồng, tăng 11,1% so với cùng kỳ.

     Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế Nhà nước doanh thu tháng 10 đạt 101,9 tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 34,8% so với cùng kỳ; 10 tháng doanh thu  đạt 966,7 tỷ đồng, tăng 37,8% so với cùng kỳ. Đây là thành phần kinh tế có mức tăng cao nhất, nguyên nhân do doanh thu của Công ty Xăng dầu Quảng Bình tăng cao; Kinh tế tập thể doanh thu tháng 10 đạt 0,7 tỷ đồng, giảm 4,4% so với tháng trước và giảm 15,8% so với cùng kỳ; 10 tháng doanh thu đạt 8,9 tỷ đồng, tăng 4,3% so với cùng kỳ; Kinh tế cá thể doanh thu tháng 10 đạt 960,6 tỷ đồng, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 11,9% so với cùng kỳ; 10 tháng doanh thu đạt 9.422,1 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ; Kinh tế tư nhân doanh thu tháng 10 đạt 629,7 tỷ đồng, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ; 10 tháng doanh thu đạt 6.091,3 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ.

     Phân theo nhóm ngành hàng: Tháng 10 so với tháng trước, ngoại trừ nhóm hàng gỗ và vật liệu xây dựng giảm 2,7% do tháng 10 bước vào mùa mưa nên ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng, các nhóm còn lại đều có mức tăng khá. Tăng cao nhất là nhóm hàng ô tô các loại tăng 15,6%, tháng này nhiều xe mới dòng nhập khẩu ra mắt thị trường từ xe hạng A đến xe hạng C, cùng với nhiều dòng xe giảm giá sau khi Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA) có hiệu lực làm cho thị trường ô tô rất phong phú và đa dạng.

     Nhóm hàng may mặc tăng 7,6% do đã bước vào mùa thu đông nên nhu cầu nhóm hàng này tăng cao.

     Nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 3,2%, tương tự như nhóm hàng may mặc, sức mua của người dân đối với các mặt hàng điện máy tháng này cũng bắt đầu tăng lên.

     Các nhóm còn lại có mức tăng cụ thể như sau: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 2,4%; nhóm vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 5,6%; nhóm phương tiện đi lại tăng 1,6%; nhóm xăng dầu các loại tăng 0,9%; nhóm nhiên liệu khác tăng 2,1%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 1,6%; nhóm hàng hóa khác tăng 1,5%; nhóm sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ tăng 3,1% so với tháng trước.

     b. Lưu trú, ăn uống và du lịch

     - Dịch vụ lưu trú: Tháng 10, dịch vụ lưu trú giảm mạnh so với tháng trước theo đúng chu kỳ của mùa vụ du lịch tại địa phương. Ước tính doanh thu lưu trú tháng 10 đạt 14,1 tỷ đồng, giảm 16,6% so với tháng trước và tăng 32,3% so với cùng kỳ; 10 tháng doanh thu đạt 152,0 tỷ đồng, tăng 15,0% so với cùng kỳ.

     Số lượt khách lưu trú tháng 10 ước tính đạt 60.380 lượt khách, giảm 13,4% so với tháng trước và tăng 26,9% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 710.832 lượt khách, tăng 17,5% so với cùng kỳ. Trong đó, số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 10 ước tính đạt 11.091 lượt khách, giảm 10,6% so với tháng trước và tăng 174,5% so cùng kỳ; 10 tháng đạt 93.151 lượt khách, tăng 76,8% so với cùng kỳ.

     Ngày khách tháng 10 ước tính đạt 85.439 ngày khách, giảm 9,6% so với tháng trước và tăng 56,8% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 900.436 ngày khách, tăng 26,6% so với cùng kỳ.

     - Dịch vụ ăn uống: Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 10 ước tính đạt 164,9 tỷ đồng, giảm 8,0% so với tháng trước và tăng 16,1% so cùng kỳ; 10 tháng doanh thu đạt 1.658,3 tỷ đồng, tăng 15,3% so với cùng kỳ.

     - Dịch vụ du lịch lữ hành

     Tháng 10, bước vào mùa mưa nên lượt khách và doanh thu du lịch lữ hành giảm sâu so với tháng trước, trong đó hang Sơn Đoòng, Tú Làn đã dừng khai thác. Ước tính tháng 10 doanh thu dịch vụ lữ hành đạt 10,7 tỷ đồng, giảm 6,2% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ; 10 tháng doanh thu đạt 251,2 tỷ đồng, tăng 14,6% so với cùng kỳ.

     Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 10 ước tính đạt 35.319 lượt khách, giảm 11,4% so với tháng trước và tăng 27,0% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 776.161 lượt khách, tăng 13,9% so với cùng kỳ. Trong đó, số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 10 ước tính đạt 12.200, giảm 11,1% so với tháng trước và tăng 112,3% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 141.937 lượt khách, tăng 65,9% so với cùng kỳ.

     c. Hoạt động dịch vụ

     Hoạt động dịch vụ tháng 10 tăng cao ở một số nhóm dịch vụ phục vụ cá nhân làm cho tổng doanh thu hoạt động dịch vụ tăng cao. Mười tháng hoạt động dịch vụ tiếp tục xu hướng tăng cao ở hầu hết các nhóm dịch vụ. Ước tính doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 10 đạt 89,3 tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 15,7% so với cùng kỳ; 10 tháng ước đạt 866,1 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ.

     Ước tính 10 tháng năm 2018, doanh thu phần lớn các nhóm hàng dịch vụ đều tăng so với cùng kỳ. Tăng cao nhất là nhóm dịch vụ khác tăng 14,4%; tiếp đến nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 12,8%; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 12,2%; nhóm dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 10,1%; nhóm dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 12,8%; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 6,6%; có 1 nhóm giảm là nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm 2,3% so với cùng kỳ năm trước.

     d. Hoạt động vận tải

     Hoạt động kinh doanh vận tải tháng 10 trên địa bàn tương đối ổn định. Cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng hoàn thiện, số lượng và chất lượng phương tiện vận tải được nâng lên đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân.

     Tổng doanh thu vận tải tháng 10 ước tính  đạt 302,5 tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng trước; 10 tháng doanh thu đạt 2.807,7 tỷ đồng, tăng 9,4% so với cùng kỳ. Trong đó doanh thu vận tải hành khách đạt 517,0 tỷ đồng, tăng 9,7%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 1.952,0 tỷ đồng, tăng 9,5%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 338,7 tỷ đồng, tăng 8,1% so với cùng kỳ.

     Tổng số hành khách vận chuyển tháng 10 ước tính đạt 1,9 triệu hành khách, tăng 0,4% so tháng trước; 10 tháng đạt 20,9 triệu hành khách, tăng 9,3% so với cùng kỳ. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 10 ước tính đạt 93,6 triệu hk.km, tăng 0,3% so với tháng trước; 10 tháng đạt 952,2 triệu hk.km, tăng 9,8% so với cùng kỳ.

     Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 10 ước tính đạt 1,7 triệu tấn, tăng 0,1% so với tháng trước; 10 tháng đạt 20,6 triệu tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ. Tổng khối lượng hàng hoá luân chuyển tháng 10 ước tính đạt 104,7 triệu tấn.km, tương đương so với tháng trước; 10 tháng đạt 1.027,3 triệu tấn.km, tăng 9,3% so với cùng kỳ.

     7. Thu ngân sách Nhà nước

     Tổng thu ngân sách trên địa bàn 10 tháng năm 2018 ước tính thực hiện 2.832,2 tỷ đồng, bằng 80,9% dự toán địa phương giao và tăng 6,7% so với cùng kỳ. Trong đó thu nội địa thực hiện 2.677,8 tỷ đồng, bằng 79,5% dự toán địa phương giao, tăng 4,6% so với cùng kỳ; thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 154,4 tỷ đồng, tăng 18,8% dự toán địa phương giao, tăng 62,6% so với cùng kỳ.

     Trong tổng số thu cân đối ngân sách 10 tháng năm 2018, có 10/16 khoản thu đạt tiến độ (83,3%) dự toán năm: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 397,6%; Thuế bảo vệ môi trường đạt 109,1%; Thu tiền thuê đất đạt 92,8%; Thu phí lệ phí đạt 87%; Thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đạt 115,4%; Thu lệ phí trước bạ đạt 94,3%; Thu khác trong cân đối đạt 90,6%; Thu thuế thu nhập cá nhân đạt 114,8%; Thu tại xã đạt 139,2%; Thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đạt 87,8%. Còn lại 6/16 khoản không đạt tiến độ của năm.

     II. XÃ HỘI

     1. Giáo dục, đào tạo

     a. Giáo dục

     Năm học 2018 - 2019 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tiếp tục tập trung thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; chuẩn bị các điều kiện để thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, ngành Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình đã xác định chủ đề năm học “Quyết tâm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện nghiêm kỷ cương, nền nếp, văn hóa ứng xử trong trường học”.

     Bước vào năm học mới, toàn ngành đã tập trung thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: tăng cường kỷ cương về giáo dục - đào tạo; rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới trường, lớp và cơ sở giáo dục trong toàn tỉnh; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; chuẩn bị các điều kiện để thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông; đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong giáo dục phổ thông; tăng cường các nguồn lực, bảo đảm các điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục.

     Theo báo cáo sơ bộ của Sở Giáo dục và Đào tạo, khai giảng năm học mới toàn tỉnh có 589 trường gồm 182 trường và cơ sở giáo dục mầm non; 208 trường tiểu học (trong đó, có 3 trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật, 1 trường tư thục); 147 trường THCS; 19 trường PTCS; 6 trường PTTH (trong đó, có 1 trường tư thục) và 27 trường THPT (trong đó, có 24 trường THPT, 1 trường THPT chuyên, 1 trường THPT dân tộc nội trú tỉnh, 1 trường THPT kỹ thuật), số trường của các cấp học không thay đổi so với năm học 2017 - 2018.

     Sở Giáo dục và Đào tạo đã tích cực phối hợp với các sở, ngành, địa phương tham mưu UBND tỉnh ban hành các kế hoạch nhằm tăng trưởng cơ sở vật chất trường học đáp ứng yêu cầu thực hiện lộ trình đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Đến nay, tỷ lệ phòng học được kiên cố hóa ở các trường tiểu học đạt 77,27%, THCS đạt 90,18%, THPT đạt 93,63%; tỷ lệ kiên cố hóa  phòng học bộ môn đạt 86%. Bình quân toàn tỉnh, tỷ lệ kiên cố hóa đối với cấp học phổ thông của phòng học thông thường, bộ môn đạt 83,5%; tỷ lệ kiên cố hóa các phòng chức năng, bộ môn, thư viện, thiết bị, thí nghiệm thực hành đạt 71%. Sở Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu UBND tỉnh triển khai rà soát thực trạng, nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị trường học và công tác dồn ghép các điểm trường lẻ của cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông; triển khai thực hiện mua sắm kịp thời bổ sung thiết bị dạy học cho các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh với tổng giá trị gần 10,5 tỷ đồng để phục vụ công tác chuẩn bị triển khai áp dụng chương trình, sách giáo khoa mới.

     Đầu năm học mới, tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên cấp học mầm non và phổ thông có: 19.365 người (cán bộ quản lý 1.486 người, giáo viên 14.062 người và nhân viên 3.817 người). Nhìn chung, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cơ bản đủ về số lượng, bảo đảm về cơ cấu bộ môn, có năng lực chuyên môn, tâm huyết với nghề, ý thức tự học, tự bồi dưỡng có sự chuyển biến mạnh mẽ; tỷ lệ giáo viên, nhân viên trên chuẩn ngày càng tăng, chất lượng đội ngũ ngày càng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

     Để giảm bớt khó khăn cho học sinh, phụ huynh học sinh vào đầu năm học mới, Sở Giáo dục và Đào tạo đã có các công văn chỉ đạo thực hiện các khoản thu, chi trong nhà trường rõ ràng, minh bạch, đúng quy định, không để xảy ra tình trạng thu sai dưới mọi hình thức trong các cơ sở giáo dục trên địa bàn. Sở Giáo dục và Đào tạo đã thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra các cơ sở giáo dục trong toàn tỉnh về vấn đề thu, chi để phát hiện sai phạm và kiên quyết xử lý người đứng đầu theo quy định của pháp luật. Đồng thời, đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân cùng với ngành Giáo dục và Đào tạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các khoản thu trong các trường học; đơn vị nào thực hiện các khoản thu và quản lý, sử dụng các khoản thu trái với quy định, thủ trưởng đơn vị đó phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.

     Ngay sau ngày tựu trường, các trường học đã tổ chức ôn tập, thi lại cho học sinh; rà soát tuyển sinh đầu cấp theo kế hoạch, quy chế, quy định và hướng dẫn của các cấp quản lý giáo dục; quan tâm đặc biệt đến những học sinh tiểu học, THCS, học sinh dân tộc thiểu số có nguy cơ bỏ học để vận động đến trường. Các đơn vị cũng tích cực tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng và sửa chữa cơ sở vật chất trường học; tu sửa, vệ sinh phong quang trường lớp, củng cố thư viện, phòng thí nghiệm thực hành, phòng học bộ môn, phòng chức năng. Đồng thời, tiếp tục tổ chức phát động quyên góp quần áo, sách vở, kinh phí cho học sinh vùng khó khăn, quan tâm giúp đỡ những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh là con các đối tượng chính sách, học sinh khuyết tật, bảo đảm cho các em được hưởng đầy đủ chế độ chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước.

     b. Đào tạo

     Năm học 2017 - 2018, Trường Đại học Quảng Bình đã hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học. Đáng chú ý là hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của giảng viên và sinh viên đạt kết quả cao, với 1 đề tài cấp Nhà nước, 1 đề tài cấp tỉnh, 24 đề tài cấp cơ sở; có 3 đề tài của sinh viên được đề xuất tham gia giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2018. Chương trình hợp tác quốc tế từng bước được đẩy mạnh, thông qua Đề án học bổng ACCESS, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đã phê duyệt tài trợ hơn 26.000 USD cho 2 đoàn sinh viên đi thực tập, thực tế ở các trường đại học Thái Lan.

     Trường đã tổ chức thành công hội thảo khoa học quốc tế về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin thông minh (ACIIDS lần thứ X), thu hút hơn 200 giáo sư đầu ngành nước ngoài về tham dự. Đồng thời, nhà trường cũng đã tổ chức 11 đoàn cho các giảng viên đi dự hội nghị, hội thảo, học tập nghiên cứu chuyên môn tại các nước Thái Lan, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Trong chương trình trao đổi giảng viên, Trường đã đón 1 chuyên gia về tham gia giảng dạy tiếng Anh miễn phí cho giảng viên và sinh viên do tổ chức Fulbright (Đại sứ quán Hoa Kỳ) tài trợ; cử 2 giảng viên đi nghiên cứu và thực tập tại Pháp và Liên bang Nga. Công tác quản lý, giáo dục sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực, người học ngày càng ý thức hơn trong học tập, nghiên cứu và rèn luyện. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy và học được tăng cường.

     Bước vào năm học mới 2018 - 2019, cùng với toàn ngành giáo dục tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 29, Trường Đại học Quảng Bình đã tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản: tăng cường công tác quản lý, nâng cao chất lượng giảng dạy và đạo đức nhà giáo; đổi mới công tác tuyển sinh đáp ứng nhu cầu xã hội; tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục; chủ động và tích cực mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu khoa học. Ngày12/10/2018, Trường đại học Quảng Bình đã tổ chức lễ khai giảng năm học mới. Tại lễ khai giảng năm học mới, Trường đại học Quảng Bình đã trao thưởng cho 27 sinh viên thủ khoa của kỳ tuyển sinh năm 2018; đồng thời một số đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân đã trao tặng 220 triệu đồng cho “Quỹ học bổng Trường Trường đại học Quảng Bình” nhằm hỗ trợ các sinh viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vươn lên trong học tập.

     2. Công tác

     a. Công tác phòng chống các bệnh dịch lây

     Theo báo cáo của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, trong tháng 9/2018 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 6 trường hợp Tay - chân - miệng, 79 trường hợp sốt xuất huyết Dengue, 362 trường hợp tiêu chảy, 13 trường hợp lỵ trực trùng, 6 trường hợp lỵ a míp, 1 trường hợp viêm gan vi rút B, 1 trường hợp viêm gan vi rút C, 7 trường hợp viêm gan vi rút khác, 32 trường hợp thủy đậu, 14 trường hợp quai bị, 831 trường hợp cúm, 3 trường hợp sốt rét. Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 30/9/2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 15 trường hợp Tay - chân - miệng, 166 trường hợp sốt xuất huyết Dengue, 3.067 trường hợp tiêu chảy, 103 trường hợp lỵ trực trùng, 63 trường hợp lỵ a míp, 1 trường hợp viêm gan vi rút A, 7 trường hợp viêm gan vi rút B, 2 trường hợp viêm gan vi rút C, 104 trường hợp viêm gan vi rút khác, 679 trường hợp thủy đậu, 685 trường hợp quai bị, 8.337 trường hợp cúm, 6 trường hợp Lao phổi, 1 trường hợp thương hàn, 25 trường hợp sốt rét, 2 trường hợp bệnh không thuộc danh mục. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra.

     b. Chương trình phòng chống sốt rét

     Đã triển khai tích cực các biện pháp phòng chống sốt rét ở các địa bàn trọng điểm, tình hình sốt rét toàn tỉnh trong tháng 9/2018, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 168 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 6 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 4.071 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,15%. Lũy tích từ đầu năm đến hết tháng 9/2018, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 1.688 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 92 người, trong đó có không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét. Tiến hành xét nghiệm lam và test cho 38.127 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,19%. 

     c. Tình hình nhiễm HIV/AIDS

     Từ đầu năm đến 30/9/2018 trên địa bàn tỉnh phát hiện 37 người nhiễm mới HIV, 53 người chuyển sang AIDS, 5 người tử vong do AIDS. Tính đến ngày 30/9/2018, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.387 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 439 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 140 người. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động về thông tin - giáo dục - truyền thông, can thiệp giảm tác hại và chương trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Duy trì các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục, chương trình an toàn truyền máu trong các dịch vụ y tế.

     d. Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm

     Từ đầu năm đến nay, ngành Y tế Quảng Bình đã tích cực tiến hành kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm, tập trung vào các quầy tạp hoá, chợ, các nơi bán thực phẩm hàng ngày. Trong 9 tháng năm 2018, toàn tỉnh đã tổ chức thanh kiểm tra về an toàn vệ sinh thực phẩm tại 4.771 cơ sở, kết quả đã có 1.008 cơ sở vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, chiếm tỷ lệ 21,1%; phạt tiền 9 cơ sở, chiếm tỷ lệ 0,2%; tổng số tiền phạt 8,55 triệu đồng; nhắc nhở, yêu cầu khắc phục 999 cơ sở, tỷ lệ 20,9%. Nhờ đó, từ đầu năm đến nay toàn tỉnh chưa xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào và chỉ xảy ra 388 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

     3. Hoạt động văn hoá, thể dục thể thao

     a. Hoạt động văn hoá

     Tháng 10/2018, UBND tỉnh Quảng Bình phối hợp với Ban Dân vận Tỉnh ủy đã tổ chức hội thi "Dân vận khéo" trong các cơ quan nhà nước tỉnh Quảng Bình năm 2018. Hội thi có 19 đội với 133 cán bộ, công chức, viên chức đến từ các sở, huyện, thị, thành phố. Thông qua Hội thi nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp ở tỉnh Quảng Bình về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận.

     Bảo tàng Tổng hợp Quảng Bình đã tổ chức Triển lãm ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp” để tưởng niệm 5 năm ngày Đại tướng qua đời (04/10/2013-04/10/2018). Với gần 150 hình ảnh, tư liệu được chọn lọc từ cuốn sách ảnh: “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp” do Bộ Thông tin và Truyền thông ấn hành năm 2011. Qua đó, giáo dục cho thế hệ sau tình yêu quê hương đất nước, lòng biết ơn sâu sắc đối với thế hệ đi trước. Từ đây, hun đúc trong mỗi người dân Quảng Bình nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung lòng tự hào dân tộc, vững bước tiếp tục con đường, sự nghiệp mà Đại tướng đã chọn.

     Sở Văn hóa và Thể thao đã tổ chức Hội thảo khoa học “Lễ hội Cầu ngư của ngư dân miền biển tỉnh Quảng Bình”. Lễ hội cầu ngư là nét đẹp văn hóa của ngư dân các làng chài ven biển ở Quảng Bình. Lễ hội tái hiện lại một cách sinh động phong tục thờ cúng cá Ông (cá Voi) theo những truyền thuyết mang đậm nét văn hóa dân gian.

     Các địa phương đã tập trung xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong xã hội. Trong đó, Sở Văn hóa và Thể thao đã tham mưu chỉ đạo đẩy mạnh và nâng cao chất lượng Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa từ tỉnh đến cơ sở. Hoạt động văn hóa ở cơ sở được tổ chức với nhiều nội dung và hình thức phong phú đã góp phần khôi phục, phát huy giá trị và tôn vinh những nét đẹp văn hoá truyền thống của địa phương.

     b. Hoạt động thể dục thể thao

     - Thể thao quần chúng

     Sở Văn hóa và Thể thao Quảng Bình đã tổ chức giải quần vợt tỉnh lần thứ XIV năm 2018. Tham gia giải có gần 100 vận động viên (VĐV) đến từ các cơ quan, đơn vị, câu lạc bộ quần vợt trên địa bàn toàn tỉnh. Các VĐV tham gia thi đấu ở 2 nội dung: đôi nam lãnh đạo và đôi nam trình VTR 1300.

     Hội Liên hiệp các câu lạc bộ bóng bàn tỉnh Quảng Bình đã tổ chức giải bóng bàn truyền thống năm 2018. Giải có sự tham gia của gần 200 VĐV đến từ 18 câu lạc bộ thành viên ở các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh.

     - Thể thao thành tích cao

     Liên đoàn Đua thuyền Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Phòng tổ chức giải Đua thuyền Rowing và Canoeing Vô địch trẻ quốc gia năm 2018 tại Câu lạc bộ Đua thuyền Hải Phòng (Huyện Thủy Nguyên, Thành phố Hải Phòng). Kết thúc các nội dung thi đấu, các vận động viên Đua thuyền Rowing và Canoeing tỉnh Quảng Bình đã xuất sắc giành được09 Huy chương, trong đó có 4 Huy chương Vàng (đơn nữ, đôi nữ, đôi nam và thuyền 4 nam), 2 Huy chương Bạc và 3 Huy chương Đồng.

     Tại giải Olympic trẻ 2018, vận động viên Nguyễn Huy Hoàng đã vượt qua nhiều đối thủ mạnh để giành huy chương vàng nội dung bơi 800m tự do nam diễn ra ở Argentina, đồng thời phá sâu kỷ lục quốc gia của chính mình.

     Tính đến ngày 16/10/2018, thể thao thành tích cao đã đạt được 146 Huy chương các loại, trong đó có 61 HCV, 41 HCB và 44 HCĐ. Trong đó đã xuất sắc đạt được 29 Huy chương quốc tế (13 HCV, 7 HCB và 9 HCĐ).

     4. Tình hình an toàn giao thông và cháy nổ

     a. An toàn giao thông

     Theo báo cáo của Công an tỉnh, tháng 9 năm 2018 toàn tỉnh đã xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông, tăng 16 vụ so với tháng 9 năm 2017, trong đó đường bộ 30 vụ, tăng 17 vụ; đường sắt không xảy ra tai nạn, giảm 01 vụ. Số người chết do tai nạn giao thông 9 người, tăng 1 người so với tháng 9 năm 2017; trong đó đường bộ chết 9 người, tăng 1 người; đường sắt không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao 23 người, tăng 10 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ bị thương 23 người, tăng 11 người; đường sắt không xảy ra, giảm 1 người so với tháng 9 năm 2017.

     Lũy kế 9 tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh đã xảy ra 155 vụ tai nạn giao thông, giảm 20 vụ so với cùng kỳ năm 2017, trong đó đường bộ 152 vụ, giảm 18 vụ so cùng kỳ; đường sắt xảy ra 2 vụ, giảm 3 vụ so cùng kỳ; đường thủy xảy ra 01 vụ, tăng 01 vụ. Số người chết do tai nạn giao thông 71 người, giảm 17 người so cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 70 người, giảm 16 người; đường sắt chết 1 người, giảm 1 người so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra. Số người bị thương do tai nạn giao thông 118 người, giảm 20 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 114 người, giảm 23 người; đường sắt bị thương 4 người, tăng 3 người, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2017.

     b. Tình hình cháy nổ

     Tháng 9 năm 2018 toàn tỉnh đã xảy ra 2 vụ cháy với giá trị thiệt hại 15 triệu đồng và 252 ha rừng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 42 vụ cháy với giá trị thiệt hại 105.862 triệu đồng; trong đó, thành phố Đồng Hới 12 vụ với giá trị thiệt hại 1.414 triệu đồng; thị xã Ba Đồn 5 vụ với giá trị thiệt hại 116 triệu đồng; huyện Minh Hóa 2 vụ với giá trị thiệt hại 130 triệu đồng; huyện Tuyên Hóa 1 vụ với giá trị thiệt hại 500 triệu đồng; huyện Quảng Trạch 4 vụ với giá trị thiệt hại 500 triệu đồng; huyện Bố Trạch 12 vụ với giá trị thiệt hại 102.902 triệu đồng; huyện Quảng Ninh 2 vụ với diện tích rừng bị cháy là 267 ha; huyện Lệ Thủy 4 vụ với giá trị thiệt hại 300 triệu đồng./.

[Trở về]