THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 năm 2015 tỉnh Quảng Bình 

Kinh tế - xã hội của tỉnh sáu tháng đầu năm 2015 diễn ra trong điều kiện có nhiều thuận lợi: Kinh tế thế giới đã qua thời kỳ khủng hoảng, kinh tế trong nước trên đà tăng trưởng cao trở lại, giá nhiên liệu ở mức thấp so với những năm gần đây, lãi suất ngân hàng tiếp tục giảm, lạm phát được kiểm soát tốt... Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 còn gặp phải một số khó khăn nhất định, như: Nắng nóng kéo dài, tiêu thụ một số mặt hàng nông sản khó khăn, giá cả không ổn định, xuất khẩu đạt thấp, năng lực quản lý và cạnh tranh của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế… làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.

Năm 2015 có ý nghĩa hết sức quan trọng, là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, là năm tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nên tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt để thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015. Trong đó tập trung thực hiện đồng bộ Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 3 tháng 1 năm 2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015 và Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 2 năm 2015 - 2016. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh, UBND tỉnh và sự phấn đấu khắc phục khó khăn của các địa phương, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong tỉnh nên nhìn chung hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn đã đạt được những kết quả khả quan trên từng ngành, từng lĩnh vực.

Một số chỉ tiêu chủ yếu ước thực hiện 6 tháng như sau:

- Tổng sản phẩm trên địa bàn toàn tỉnh - GRDP (theo giá so sánh 2010) đạt 8.557,7 tỷ đồng, tăng 6,9% so cùng kỳ năm trước (kế hoạch năm 2015 tăng 7,5%). 

          - Giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản (giá so sánh 2010) đạt 3.756,5 tỷ đồng, so cùng kỳ năm trước tăng 3,6% (kế hoạch năm 2015 tăng 3,5%).

          - Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng (giá so sánh 2010) đạt 6.372,6 tỷ đồng, tăng 10,7% so cùng kỳ năm trước. 

Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) đạt 4.418,7 tỷ đồng, tăng 9,3% so cùng kỳ năm trước (kế hoạch năm 2015 tăng 10,0%).

          - Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ (giá so sánh 2010) đạt 6.678 tỷ đồng, tăng 8,5% so cùng kỳ năm trước.

          - Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân thực hiện 200.056 tấn, tăng 0,9% so vụ Đông Xuân năm trước, so kế hoạch tăng 4,5%.

- Kim ngạch xuất khẩu đạt 50,4 triệu USD, bằng 78,2% so cùng kỳ năm trước và đạt 33,6% kế hoạch năm.

I. KINH  TẾ

Ước tính sơ bộ, tổng sản phẩm trên địa bàn toàn tỉnh 6 tháng năm 2015  (theo giá so sánh 2010) đạt 8.557,7 tỷ đồng, tăng 6,9% so cùng kỳ năm 2014. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 2.042,8 tỷ đồng, tăng 3,0%, đóng góp 0,7%; khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 1.983,3 tỷ đồng, tăng 8,8%, đóng góp 2,0%; khu vực dịch vụ ước đạt 4.531,6 tỷ đồng, tăng 7,9% so cùng kỳ năm 2014, đóng góp 4,2% trong tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh (%)

 

 

Tốc độ tăng 6 tháng

so với cùng kỳ

năm trước

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng 6 tháng năm 2015

 

Năm

 2014

Năm 2015

Tổng số

7,5

6,9

6,9

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

4,4

3,0

0,7

Công nghiệp và xây dựng

10,3

8,8

2,0

Dịch vụ

7,7

7,9

4,2

Trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, đạt được tốc độ tăng trưởng cao như trên là một thành công lớn. Kết quả trên khẳng định tính kịp thời, phù hợp và hiệu quả của các biện pháp và giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, chính quyền các cấp, sự nỗ lực của các ban, ngành và cộng đồng doanh nghiệp, sự đồng thuận, cùng chia sẻ khó khăn của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Cụ thể từng ngành, từng lĩnh vực như sau:

1. Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong 6 tháng đạt kết quả khá, một số chỉ tiêu tăng cao so cùng kỳ năm trước. Vụ Đông Xuân cơ bản được mùa, cây trồng được chuyển đổi nên diện tích được ổn định và có tăng nhẹ, năng suất và sản lượng một số cây trồng tăng khá so vụ Đông Xuân năm trước. Nhiều cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao được trồng tập trung theo mô hình cánh đồng mẫu lớn. Đàn trâu, bò phát triển khá hơn; đàn lợn và đàn gia cầm mang tính sản xuất hàng hóa rõ nét theo mô hình sản xuất tập trung. Sản xuất lâm nghiệp chuyển dịch đúng hướng, sản phẩm khai thác từ rừng được kiểm soát chặt chẽ, chủ yếu thực hiện khai thác gỗ từ rừng trồng. Công tác chăm sóc, bảo vệ và phát triển vốn trồng được quan tâm triển khai đồng bộ. Khai thác thuỷ sản tăng khá, đặc biệt khai thác biển tăng cao và chuyển dịch hiệu quả hơn nhờ chú trọng phát triển năng lực khai thác xa bờ. Khai thác ven bờ, nội địa có chiều hướng giảm tốc độ tăng về sản lượng, diện tích nuôi trồng thủy sản được mở rộng; nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi cá trong ruộng lúa phát triển khá; nuôi cá lồng, bè ổn định về quy mô.

Dự ước giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng năm 2015 (theo giá so sánh năm 2010) đạt 3.756,5 tỷ đồng, tăng 3,6% so cùng kỳ năm trước (kế hoạch cả năm 3,5%). Trong đó, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 2.715,7 tỷ đồng, tăng 3,4%; ngành lâm nghiệp đạt 223,3 tỷ đồng, bằng 87,6%; ngành thủy sản đạt 817,5 tỷ đồng, tăng 9,6%.

Kết quả cụ thể như sau:

1.1 Nông nghiệp

a. Trồng trọt

Được sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp, các ngành nên vụ Đông Xuân năm nay các địa phương đã gieo cấy hết diện tích, đúng lịch thời vụ. Bên cạnh đó, tình hình thời tiết thuận lợi, sâu bệnh và chuột gây hại không lớn nên năng suất, sản lượng nhiều loại cây trồng tăng so vụ Đông Xuân năm trước.

Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân 2015 thực hiện 54.727,7 ha, tăng 0,9% so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng của các địa phương: Đồng Hới 1.385,1 ha, bằng 99,6%; Ba Đồn 4.788,0 ha, tăng 0,1%; Minh Hoá 3.138,0 ha, bằng 97,5%; Tuyên Hoá 4.895,6 ha, tăng 0,4%; Quảng Trạch 6.444,0 ha, tăng 1,0%; Bố Trạch 13.297,5 ha, tăng 1,0%; Quảng Ninh 7.162,5 ha, tăng 4,0%; Lệ Thuỷ 13.617,0 ha, tăng 0,4%.

Diện tích theo nhóm cây: Cây lúa 30.111,7 ha, tăng 1,6%; ngô và cây lương thực có hạt khác 4.072,6 ha, tăng 5,6%; cây lấy củ có chất bột 9.762,1 ha, tăng 3,7%; cây mía 90 ha, tăng 26,8%; cây thuốc lá, thuốc lào 4,7 ha, bằng 78,3%; cây lấy sợi 5 ha; cây có hạt chứa dầu 4.547,0 ha, bằng 92,4%; cây rau, đậu, hoa, cây cảnh 4.655,5 ha, tăng 2,6%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 466,4 ha, bằng 61,6% (Trong đó: Cây ớt thực hiện 407,5 ha, bằng 56,7%; diện tích cây ớt giảm nhiều so năm trước, nguyên nhân là do sản phẩm không tiêu thụ được, hiệu quả mang lại thấp nên bà con nông dân đã chuyển đổi sang trồng một số cây trồng khác như lạc, ngô, sắn…); cây hàng năm khác 1.012,7 ha, bằng 96,1% so cùng kỳ.

  Sơ bộ năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu

Đơn vị tính: Năng suất: Tạ/ha, sản lượng: Tấn

 

Đông Xuân 2015

ĐX 2015 so với ĐX 2014

 

Năng suất

Sản lượng

Năng suất

Sản lượng

- Cây lúa

- Cây ngô

- Cây lạc

- Cây khoai lang

- Rau các loại

- Đậu các loại

59,4

52,3

20,5

72,9

100,1

8,9

178.991,2

20.739,5

8.878,7

21.493,8

39.784,4

545,3

-0,9

+2,1

+1,7

-4,8

+1,6

-0,1

-46,7

+1.823,6

+134,1

-1.554,0

+1.759,7

-4,5

Sn lượng lương thc vụ Đông Xuân 2015 thực hiện 200.056,2 tn, tăng 0,9% so vụ Đông Xuân năm trước và vượt 4,5% kế hoạch. Trong đó: Sản lượng thóc 178.991,2 tấn, tương đương năm trước và vượt 4,5% kế hoạch; sản lượng lương thực khác 21.065,0 tấn, tăng 9,9% so cùng kỳ và vượt 3,3% kế hoạch.

Sản xuất cây lâu năm đang được các doanh nghiệp và các hộ gia đình tiếp tục chăm sóc, đầu tư cải tạo vườn tạp nhằm bố trí các loại cây có hiệu quả kinh tế cao. Diện tích cây lâu năm thực hiện 23.079,4 ha, tăng 19,1% so cùng kỳ. Trong đó, diện tích cao su có 17.980,9 ha, tăng 26,3%; diện tích cây hồ tiêu 797,6 ha, bằng 98,2%; các loại cây ăn quả 3.307,6 ha, bằng 99,6%. Sản lượng 6 tháng đầu năm một số cây lâu năm chủ yếu: Cao su khai thác 2.970,7 tấn, tăng 12,6%; hồ tiêu 395,9 tấn, tăng 6,9% so cùng kỳ. 

b. Chăn nuôi

Chăn nuôi 6 tháng đầu năm phát triển ổn định, các địa phương đang từng bước phục hồi tổng đàn. Chăn nuôi lợn, gia cầm theo mô hình trang trại, gia trại có xu hướng phát triển khá về số lượng và quy mô nuôi. Chăn nuôi nhỏ lẻ trong các hộ gia đình thu hẹp.

Tổng đàn tại thời điểm 01/4/2015:

- Đàn trâu 34.512 con, tăng 3,6% so cùng kỳ năm trước;

- Đàn bò 91.061 con, tăng 5,4% so cùng kỳ năm trước;

- Đàn lợn 351.126 con, tăng 1,1% so cùng kỳ năm trước;

- Đàn gia cầm: 2.681,8 ngàn con, tăng 2,4% so cùng kỳ năm trước.

Đàn bò lai được chú trọng nên chiếm tỷ trọng ngày càng cao, chăn nuôi lợn, gia cầm theo mô hình trang trại, gia trại có xu hướng phát triển khá nên quy mô đàn phát triển ổn định. Mặc dù đàn lợn, gia cầm tại thời điểm tăng không lớn nhưng do phát triển khá về nuôi tập trung nên hệ số xuất chuồng của lợn và gia cầm tăng ổn định. Trong 6 tháng đầu năm, sản lượng thịt hơi xuất chuồng 30.787,6 tấn, so cùng kỳ năm trước tăng 3,5%. Trong đó: Thịt lợn 23.381,7 tấn, tăng 5,0%, thịt gia cầm 3.828,4 tấn, tăng 11,3% so 6 tháng đầu năm trước.

Công tác phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi đạt kết quả cao. Công tác dự báo và triển khai tiêm vacxin được thực hiện đồng bộ giữa ngành chuyên môn và lãnh đạo các cấp địa phương, tuy nhiên tiến độ còn chậm so năm trước.     

1. 2. Lâm nghiệp

Sản xuất ngành lâm nghiệp tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Công tác trồng rừng, phục hồi vốn rừng, làm giàu rừng được chú trọng. Khai thác gỗ từ rừng trồng được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần tiến độ. Công tác quản lý, bảo vệ rừng được quan tâm. Tuy nhiên, do thời tiết nắng nóng kéo dài nên đã xẩy ra tình trạng cháy rừng ở một số địa phương nhưng quy mô và giá trị thiệt hại không lớn.

Dự ước 6 tháng trồng rừng tập trung thực hiện 270,3 ha, tăng 12,2%; diện tích rừng trồng được chăm sóc 14.740 ha, tăng 3,9%; trồng cây phân tán thực hiện 2.300 ngàn cây, tăng 8,5% so cùng kỳ năm trước. Hiện tại, các địa phương triển khai công tác chuẩn bị mặt bằng, cây giống và một số điều kiện khác để chủ động triển khai trồng rừng theo kế hoạch vào cuối năm.

Dự ước 6 tháng sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng 90.270 m3, bằng 69,4% so cùng kỳ; sản lượng củi khai thác 122.400 ste, bằng 87,4% so cùng kỳ năm trước.

1.3. Thủy sản

Nhờ có chủ trương đúng đắn và có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước nên năng lực ngành thủy sản ở các địa phương đã có bước phát triển tích cực. Diện tích nuôi trồng tăng khá, số lượng lồng nuôi cá được giữ vững, tàu thuyền đánh bắt thủy sản được cải hoán, đóng mới theo hướng khai thác xa bờ. Theo đó, kết quả hoạt động ngành thủy sản 6 tháng đầu năm tăng khá so cùng kỳ năm trước.

Số lượng tàu thuyền, xuồng khai thác có động cơ hiện có 4.840 chiếc, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,5%. Trong đó: Khai thác biển có 4.004 chiếc, tăng 1,9%; đánh bắt nội địa có 836 chiếc, giảm 0,5% so cùng kỳ năm trước.

Trong số 4.004 tàu khai thác biển, có 3.929 chiếc tàu cá, tăng 2,1%; trong đó có 1.456 tàu cá khai thác xa bờ, tăng 2,7% so với cùng kỳ. Công suất tàu cá hiện có trên 404.332 CV, tăng 17,4% so cùng kỳ.

Diện tích nuôi trồng thủy sản 4.765,4 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 4,7%. Trong đó, diện tích nuôi nước lợ 1.030 ha, tương đương năm trước; diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng 640,8 ha, tăng 25,1%. Số lồng bè có 1.221 cái, tăng 0,2% so cùng kỳ năm trước.

Dự ước 6 tháng, sản lượng thủy sản thực hiện 29.323,8 tấn, tăng 8,4% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng nuôi trồng 3.492,6 tấn, tăng 9,0%; riêng tôm thẻ chân trắng đạt 1.130 tấn, tăng 12,7%. Sản lượng khai thác 25.831,2 tấn, tăng 8,3%. Sản lượng khai thác chia ra: Khai thác biển 24.703,9 tấn, tăng 8,5%; khai thác nội địa 1.127,3 tấn, tăng 4,7% so cùng kỳ năm trước.

1.4. Xây dựng nông thôn mới

Nhờ sự chỉ đạo tích cực của các cấp ủy, chính quyền và huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc nên kết quả xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao. Đặc biệt, công tác phát triển sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân được chú trọng, kết cấu hạ tầng tại các xã được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hơn, khang trang hơn. Đến cuối tháng 5, toàn tỉnh đã có 12 xã hoàn thành 19 tiêu chí; 24 xã đạt từ 15-18 tiêu chí; 38 xã đạt từ 10 đến 14 tiêu chí; 52 xã đạt từ 5 đến 9 tiêu chí; và 10 xã đạt dưới 5 tiêu chí. Dự kiến đến cuối năm, số xã đạt nông mới đạt kế hoạch đề ra.

1.5. Trang trại

Trang trại phát triển khá, số lượng hiện có cao hơn nhiều so với các tỉnh trong vùng, đặc biệt là loại hình trang trại tổng hợp. Dự kiến đến 31/6/2015, toàn tỉnh có 643 trang trại (theo tiêu chí mới), so với cùng kỳ năm trước tăng 2,6% (16 trang trại). Chia ra: Trồng trọt có 283 trang trại, bằng 100%; chăn nuôi có 101 trang trại, tăng 5,2% (5 trang trại); lâm nghiệp có 14 trang trại, bằng 100%; thủy sản có 55 trang trại, bằng 100%; loại hình tổng hợp có 190 trang trại, tăng 6,1% (11 trang trại). Loại hình trang trại chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển khá. Ngoài ra, loại hình gia trại có chiều hướng phát triển nhanh về số lượng, nhiều gia trại (trang trại theo tiêu chí cũ) tiếp tục đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất để phấn đấu trở thành trang trại trong thời gian sắp đến.

            2. Công nghiệp

Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2015 duy trì sản xuất ổn định. Mặc dù đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, nhưng sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn đối mặt với nhiều khó khăn. Trong 6 tháng đầu năm chưa có dự án lớn đưa vào sản xuất để tác động mạnh đến tăng trưởng của ngành sản xuất công nghiệp. Tăng trưởng của ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm có sự đóng góp lớn của ngành sản xuất trang phục, ngành chế biến gỗ và đặc biệt là ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (xi măng, clinker, gạch xây dựng…); còn lại hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến chủ yếu đều đạt thấp hoặc chỉ tăng trưởng nhẹ so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 6 năm 2015 ước tính tăng 12,6% so với tháng trước; 6 tháng năm 2015 tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành khai khoáng giảm 4,2% (nguyên nhân chủ yếu do một số doanh nghiệp hoạt động trong ngành khai thác quặng kim loại ngừng khai thác); ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,4%; ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt… tăng 5,9%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,1%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2015 của một số ngành công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như sau: Ngành sản xuất trang phục tăng 39,3% (nguyên nhân do Xí nghiệp may Hà Quảng vừa đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất mới và Công ty TNHH S&D tại huyện Quảng Ninh mới đi vào hoạt động); ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 14,2%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 7,3%; ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 5,2%; ngành khai khoáng khác (đá xây dựng) tăng 4,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,6%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) tăng 4,2%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 3,8%; ngành in, sao chép bản ghi các loại tăng 1,1%.

Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá cơ bản (giá so sánh năm 2010)

Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2015 ước đạt 4.418,7 tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: kinh tế nhà nước ước đạt 387,7 tỷ đồng, tăng 7,3%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 4.028,7 tỷ đồng, tăng 9,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 2,4 tỷ đồng, tăng 6,7%.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu

Một số sản phẩm sản xuất chủ yếu ngành công nghiệp ước tính đến cuối tháng 6 năm 2015: Đá xây dựng 1,44 triệu m3, tăng 4,6%; mực đông lạnh 698 tấn, giảm 2,0%; tinh bột sắn 5.782 tấn, tăng 8,9%; bia đóng chai 8,56 triệu lít, giảm 3,3%; gạch lát nền 2,3 triệu viên, giảm 32,5% (do trong tháng 2 và đầu tháng 3 nhà máy sản xuất gạch lát nền thuộc Công ty Gốm sứ và Cosevco ngừng hoạt động để bảo dưỡng); gạch xây bằng đất sét nung 113,5 triệu viên, tăng 8,7%; clinker thành phẩm 1,2 triệu tấn, tăng 22,8%; xi măng 760.398 tấn, tăng 10,9%; điện thương phẩm 357 triệu Kwh, tăng 4,6%; nước máy 3.637 nghìn m3, tăng 5,2% so cùng năm trước.

3. Vốn đầu tư

Trong những tháng qua, tình hình thời tiết thuận lợi cho việc đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình kỹ thuật dân dụng, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Khối lượng vốn thực hiện sáu tháng vừa qua chủ yếu là các công trình chuyển tiếp từ những năm trước và một số công trình mới đã phân bổ vốn năm 2015 triển khai thi công.

Khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 6 năm 2015 ước thực hiện 287 tỷ đồng. Trong đó, vốn Nhà nước Trung ương quản lý ước thực hiện 95,5 tỷ đồng; vốn Nhà nước địa phương quản lý ước thực hiện 191,5 tỷ đồng.

Sáu tháng đầu năm 2015, khối lượng vốn đầu tư Nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh ước thực hiện 1.650,9 tỷ đồng, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó, vốn Nhà nước Trung ương quản lý ước thực hiện 685,9 tỷ đồng; vốn Nhà nước địa phương quản lý ước thực hiện 965 tỷ đồng. Cụ thể: Ngành nông lâm nghiệp, thuỷ sản ước thực hiện 126,1 tỷ đồng; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước thực hiện 73 tỷ đồng; ngành vận tải kho bãi ước thực hiện 1.048,4 tỷ đồng; ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội ước thực hiện 73,8 tỷ đồng; ngành giáo dục và đào tạo ước thực hiện 80,8 tỷ đồng; ngành an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước ước thực hiện 90,8 tỷ đồng…

Sáu tháng năm 2015, tiến độ thi công các công trình và hạng mục công trình trên địa bàn tỉnh được triển khai chủ yếu cho các công trình:

Về giao thông: Hiện nay, Dự án mở rộng Quốc lộ 1A đoạn đi qua tỉnh khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thi công những hạng mục nhằm hoàn thiện tuyến đường, đảm bảo hoàn thành khối lượng, tiến độ theo đúng kế hoạch đề ra, tạo điều kiện cho giao thông thuận lợi cũng như phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, tăng cường bê tông hoá đường liên thôn, liên xã như các tuyến đường của các xã bãi ngang, các xã đồng bằng, nhiều xã tích cực xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy chuẩn nông thôn mới nhằm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới;

Các công trình thuỷ lợi: Kiên cố hoá kênh mương, tích cực nạo vét kênh mương, tu sửa hồ đập, góp phần trong việc phục vụ sản xuất nông nghiệp, tăng cường xây dựng hệ thống kè bên bờ sông nhằm chống xói lỡ. Bên cạnh đó, do nằm trong quy hoạch giải phóng mặt bằng Quốc lộ 1A nên hệ thống kênh mương tưới tiêu, thoát nước dọc Quốc lộ 1A đang tập trung thi công;

Các công trình xây dựng trụ sở làm việc: Các trụ sở cơ quan đang gấp rút thi công các hạng mục sớm đưa vào sử dụng đảm bảo điều kiện làm việc cho cán bộ, cụ thể: trụ sở Tỉnh uỷ; trụ sở Chi cục Thuế thành phố Đồng Hới; trụ sở Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Bình…

Các công trình công nghiệp chế biến: Khu công nghiệp cảng Hòn La tiếp tục được đầu tư xây dựng, giải phóng mặt bằng thuận lợi, thu hút được các doanh nghiệp đầu tư xây dựng. Một số doanh nghiệp có tại đây đã và đang sản xuất có hiệu quả tốt.

Một số khó khăn trong quá trình thực hiện vốn đầu tư XDCB đó là: Nợ đọng vốn đầu tư xây dựng của các địa phương rất cao trong khi doanh nghiệp xây dựng khó khăn về vốn; lao động xây dựng thiếu, năng lực các chủ đầu tư, năng lực nhiều đơn vị tư vấn còn hạn chế nên công tác xây dựng quy hoạch, lập dự án đầu tư chậm, chất lượng còn thấp nên phải điều chỉnh nhiều lần làm ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng các công trình hạ tầng.

4. Thương mại, dịch vụ

a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

Dước tháng 6 tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 1.297,6 tỷ đồng, tăng 2,8% so tháng trước và tăng 8,7% so cùng kỳ. Tính chung 6 tháng năm 2015 tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 7.610,2 tỷ đồng, tăng 7,9% so cùng kỳ, nếu loại trừ yếu tố giá, ước tăng 7,4%.

Phân theo loại hình kinh tế: Kinh tế Nhà nước: 6 tháng năm 2015 doanh thu ước đạt 463,5 tỷ đồng, giảm 33,2% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 6,1% trong tổng mức bán lẻ hàng hóa, tỷ trọng của thành phần kinh tế này đang giảm dần; kinh tế tập thể dự ước 6 tháng doanh thu đạt 9,2 tỷ đồng, tăng 18,6% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng rất nhỏ là 0,1%; kinh tế cá thể doanh thu 6 tháng ước đạt 4.451,9 tỷ đồng, tăng 13,9% so cùng kỳ, đây là thành phần chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các thành phần kinh tế với 58,5%; kinh tế tư nhân dự ước doanh thu 6 tháng đạt 2.685,6 tỷ đồng, tăng 9,9% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 35,3% trong các thành phần kinh tế.

Danh thu 6 tháng của một số nhóm hàng có tỷ trọng lớn trong tổng mức bán lẻ: Nhóm lương thực, thực phẩm ước tăng 20,4% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng lớn nhất (33,7%); nhóm hàng may mặc ước tăng 17,1% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 9%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình ước tăng 1,2% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 9,4%; nhóm phương tiện đi lại ước tăng 15,1% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 10%; nhóm hàng xăng dầu các loại ước giảm 13,5% so cùng kỳ...

b. Khách sạn, nhà hàng, du lịch

Tháng 6, tháng cao điểm của mùa du lịch, các hoạt động du lịch biển, du lịch hang động, du lịch tâm linh đã thu hút lượng lớn khách đến tham quan, nghỉ dưỡng. Đặc biệt, trong những ngày cuối tuần, lượng khách từ ở các tỉnh đến rất đông, làm cho hoạt động khách sạn, nhà hàng, du lịch càng sôi động hơn. Vì vậy, doanh thu, nhà hàng, du lịch lữ hành và các hoạt động hỗ trợ tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu khách sạn, nhà hàng, du lịch tháng 6 ước đạt 186,5 tỷ đồng, tăng 4,5% so tháng trước, tăng 16,7% so cùng kỳ. Trong tổng số, doanh thu khách sạn ước đạt 17,5 tỷ đồng, tăng 3,2%, doanh thu nhà hàng ước đạt 145,7 tỷ đồng, tăng 12,5%, doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 23,3 tỷ đồng, tăng 74,4% so cùng kỳ năm trước.

Dự ước 6 tháng đầu năm doanh thu khách sạn, nhà hàng, du lịch ước đạt 963,2 tỷ đồng, tăng 21% so cùng kỳ. Trong tổng số, doanh thu khách sạn ước đạt 78,2 tỷ đồng, tăng 5%, doanh thu nhà hàng ước đạt 792,7 tỷ đồng, tăng 16,6%, doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 92,2 tỷ đồng, tăng 121,6% so cùng kỳ năm trước.

   Dự ước số lượt khách du lịch đến Quảng Bình tháng 6 đạt 329,5 ngàn lượt khách, tăng 8,6% so cùng kỳ năm 2014. Dự ước 6 tháng số lượt khách du lịch đến Quảng Bình đạt 1.694,3 ngàn lượt khách, tăng 6,3% so cùng kỳ. Trong đó khách quốc tế tháng 6 ước đạt 4,8 ngàn lượt khách, tăng 13,4% so cùng kỳ, 6 tháng ước đạt 29,3 ngàn lượt khách, tăng 15,7% so cùng kỳ.

          Trong tổng số, khách lưu trú ước 6 tháng đạt 485 ngàn lượt khách, tăng 4,4%; khách du lịch lữ hành ước đạt 386,8 ngàn lượt khách, tăng 15%; khách du lịch tâm linh ước đạt 1.085,5 ngàn lượt khách, tăng 6,3% so cùng kỳ.

Hoạt động khách sạn, nhà hàng, du lịch của tỉnh 6 tháng đầu năm tiếp tục phát triển, thể hiện lượng khách đến Quảng Bình tăng khá so với cùng kỳ, các hoạt động lễ, hội được tổ chức thường xuyên nhằm phục vụ nhân dân địa phương và du khách, ngày càng có thêm các điểm du lịch hấp dẫn, chất lượng cơ sở vật chất lưu trú ngày càng được nâng lên… Trong thời gian qua, ngành du lịch Quảng Bình đã phối hợp với các bộ, ngành đẩy mạnh công tác quảng bá tiềm năng du lịch Quảng Bình. Đặc biệt du khách trong và ngoài đã biết nhiều hơn về hang Sơn Đoòng sau khi Hãng truyền hình ABC (Hoa Kỳ) thực hiện chương trình truyền hình lên vệ tinh trực tiếp về hệ thống hang động ở Phong Nha - Kẻ Bàng. Lần đầu tiên, chương trình truyền hình trực tiếp được phát từ một quốc gia Đông Nam Á nhằm quảng bá cảnh đẹp thiên nhiên và con người Việt Nam. Với việc tích cực đẩy mạnh công tác quảng bá như hiện nay, dự kiến trong thời gian tới du khách trong nước và quốc tế đến với Quảng Bình ngày một nhiều hơn.

c. Hoạt động dịch vụ

Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 6 năm 2015 ước đạt 61,3 tỷ đồng, tăng 0,5% so tháng trước và tăng 13,7% so cùng kỳ. Tính chung 6 tháng năm 2015, doanh thu ước đạt 356 tỷ đồng, tăng 10,6% so cùng kỳ.

Tính chung 6 tháng, loại trừ doanh thu nhóm dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình giảm 2,0%, tất cả các nhóm còn lại doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tăng cao nhất là nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 25,6%, tiếp đến là dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 24,3%, tăng thấp nhất là nhóm giáo dục và đào tạo tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước.

d. Xuất, nhập khẩu

- Xuất khẩu

Mặc dù sản lượng sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu khá ổn định, việc thu mua, khai thác nguồn hàng từ tỉnh bạn tương đối thuận lợi nhưng do những khó khăn đầu ra chưa được tháo gỡ, giá một số mặt hàng quan trọng giảm sút (đặc biệt là cao su), do đó kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đạt thấp so với cùng kỳ.

  Dự ước tháng 6 kim ngạch xuất khẩu đạt 10,8 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2015, kim ngạch đạt 50,4 triệu USD, bằng 78,2% so cùng kỳ và đạt 33,6% kế hoạch năm.

  Trong tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2015, khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt 49,8 triệu USD, chiếm 98,9%; còn lại 1,1% là của khu vực kinh tế nhà nước. Xét về hình thức xuất khẩu, xuất trực tiếp đạt 31,5 triệu USD, chiếm tỷ trọng 62,6%, xuất uỷ thác chiếm 37,4%; xét về nhóm ngành hàng thì hàng công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn nhất với 50,6% (riêng 2 mặt hàng dăm gỗ và phân bón đã chiếm đến gần 50%), tiếp đến là hàng nông sản chiếm 27,4% (chủ yếu là cao su), hàng lâm sản chiếm 29,5%, còn lại là của các nhóm hàng khác.

Cụ thể các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như sau:

- Cao su: Hoạt động xuất khẩu cao su từ đầu năm đến nay gặp nhiều khó khăn (giá giảm, thị trường Trung Quốc bấp bênh) nên kết quả so cùng kỳ giảm mạnh. Dự ước tháng 6 xuất 2,2 ngàn tấn. Tính chung 6 tháng sản lượng xuất đạt 8,2 ngàn tấn, bằng 61,3% so cùng kỳ và đạt 22,7% kế hoạch năm;

- Thuỷ sản: Xuất khẩu thủy sản cũng gặp nhiều khó khăn về giá cả và thị trường đầu ra. Dự ước 6 tháng xuất 59,2 tấn, bằng 54,5% so cùng kỳ và đạt 13% kế hoạch cả năm;

- Dăm gỗ khô: Hoạt động xuất khẩu dăm gỗ khá ổn định, tuy nhiên, một số doanh nghiệp gặp một số khó khăn trong việc chủ động phương tiện chuyên chở, phải bán cho các doanh nghiệp tỉnh bạn xuất, do vậy dù lượng hàng chế biến nhiều nhưng sản lượng xuất khẩu thấp, không tương xứng với năng lực. Dự ước 6 tháng đầu năm xuất 92,3 ngàn tấn, bằng 82,3% so cùng kỳ và đạt 38,4% kế hoạch năm;

- Gỗ: Dự ước 6 tháng xuất 5,9 ngàn m3, bằng 39% so cùng kỳ và đạt 22,6% kế hoạch năm;

- Phân bón: Dự ước tháng 6 tục xuất 1 ngàn tấn; tính chung 6 tháng xuất 4 ngàn tấn phân bón các loại, bằng 41,3% so với cùng kỳ và đạt 28,6% kế hoạch năm 2015. Xét về trị giá, kim ngạch xuất khẩu phân bón 6 tháng so cùng kỳ gấp 5 lần, nguyên nhân là do thay đổi cơ cấu hàng xuất (năm trước chủ yếu là xuất khẩu phân vi sinh, giá trị thấp, năm nay hầu hết là phân NPK, giá trị cao);

- Nhựa thông: Dự ước 6 tháng xuất 300,9 tấn, bằng 91,3% so cùng kỳ và đạt 30% kế hoạch năm.

Về thị trường xuất khẩu, trong 6 tháng đầu năm 2015, các doanh nghiệp trong tỉnh có quan hệ với 11 nước (năm trước là 10 nước). Trong đó, Trung Quốc là thị trường số 1 với thị phần 81,3%, các nước còn lại chỉ chiếm 18,7% và không có nước nào vượt quá thị phần 5%.

Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm 2015, hoạt động xuất khẩu vẫn chưa có bước đột phá, tất cả các mặt hàng đều sút giảm so với cùng kỳ, trong đó, cao su là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất giảm đến 38,7%, dăm gỗ giảm 17,3%, phân bón giảm 58,7% và giảm mạnh nhất là gỗ các loại, giảm 61%. Nguyên nhân chính là do thị trường, giá cả cũng như việc chế biến, khai thác nguồn hàng còn nhiều khó khăn (nhất là giá và thị trường Trung Quốc đối với mặt hàng cao su).

Nhập khẩu:

Cũng như xuất khẩu, tình hình nhập khẩu những tháng đầu năm nay nhiều khó khăn chưa được tháo gỡ. Tình hình khủng hoảng kinh tế tác động xấu đến sản xuất và đời sống nhân dân, thị trường, giá cả biến động thất thường.

  Dự ước tháng 6 kim ngạch nhập khẩu đạt 8,2 triệu USD nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2015 đạt giá 38,4 triệu USD, bằng 79,8% so cùng kỳ và đạt 63% kế hoạch năm. Trong số đó, tất cả đều là của khu vực kinh tế ngoài nhà nước và đều là nhập khẩu trực tiếp. Xét về công dụng và tính chất hàng hóa nhập khẩu, 100% hàng nhập là tư liệu sản xuất và chủ yếu là hàng tạm nhập tái xuất. Trong đó, xăng dầu là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất (57%).

Cụ thể các mặt hàng nhập khẩu 6 tháng năm 2015: Xăng, dầu 40,7 ngàn tấn, gấp 3,2 lần so với cùng kỳ; gỗ các loại 8,2 ngàn m3, bằng 37,3% so cùng kỳ; trâu, bò sống 19,6 ngàn con, bằng 50,1% so cùng kỳ.

e. Hoạt động vận tải

Hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh Quảng Bình 6 tháng đầu năm có nhiều biến động do tác động điều chỉnh liên tục của giá xăng dầu, 6 tháng có 8 lần điều chỉnh giá (trong đó có 4 lần giảm và 4 lần tăng giá). Tuy nhiên các loại hình vận tải vẫn được duy trì và phát triển đảm bảo lưu thông hàng hóa cũng như nhu cầu đi lại của nhân dân.

Dự ước tháng 6 năm 2015 tổng doanh thu hoạt động vận tải đạt 200,3  tỷ đồng, tương đương so tháng trước, 6 tháng ước đạt 1.199,6 tỷ đồng, tăng 7,4% so cùng kỳ. Trong đó, 6 tháng doanh thu vận tải đường bộ ước đạt 1.160,5 tỷ đồng, tăng 8%; doanh thu vận tải đường thủy ước đạt 29 tỷ đồng, tăng 6,4%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 10,1 tỷ đồng, giảm 31,8% so cùng kỳ.

Tổng số hành khách vận chuyển tháng 6 năm 2015 ước đạt 1.574,4 nghìn hành khách, tăng 1% so tháng trước, ước 6 tháng đạt 9.500,2 nghìn hành khách, tăng 6,3% so cùng kỳ. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 6 ước đạt 73,3 triệu hk.km, tăng tương đương so tháng trước, 6 tháng ước đạt 436,5 triệu hk.km, tăng 7,1% so cùng kỳ.

Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 6 năm 2015 ước đạt 1.550 nghìn tấn, tăng 0,8% so tháng trước, 6 tháng ước đạt 9.372,8 nghìn tấn, tăng 6,6% so cùng kỳ. Tổng khối lượng hàng hoá luân chuyển tháng 6 ước đạt 81,6 triệu tấn.km, tăng 0,2% so tháng trước, 6 tháng ước đạt 480,8 triệu tấn.km, tăng 7,1% so cùng kỳ.

f. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

* Chỉ số giá tiêu dùng:

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 năm 2015 so với tháng trước tăng 0,28%; so với tháng 12 năm trước tăng 0,65%, bình quân 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước tăng 1,28% (trong đó, nhóm hàng hóa tăng 0,46%, nhóm dịch vụ tăng 3,42%).        

Chỉ số giá tiêu dùng tháng này tăng cao hơn so tháng trước do thời điểm này đang giữa mùa nắng nóng nên giá các mặt hàng thực phẩm rau, củ tăng cao, đặc biệt là giá xăng dầu biến động liên tục vào các ngày 05/5/2015, 20/5/2015, 21/5/2015 và 04/6/2015. Qua các lần tăng giá đã làm giá xăng A95, A92 mỗi loại tăng hơn 3.000 đồng/lít, do đó đã làm cho nhóm giao thông tăng 3,55%.

Trong 11 nhóm hàng hóa, dịch vụ so với tháng trước có 3 nhóm hàng giảm giá; 2 nhóm hàng có giá ổn định (nhóm giáo dục; nhóm đồ uống và thuốc lá) và 6 nhóm hàng tăng giá.

Cụ thể diễn biến giá của các nhóm hàng chính trong tháng 6 năm 2015 so với tháng trước như sau:

- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,2%;

- Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,45%;

- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,62%;

- Thiết bị đồ dùng gia đình tăng 0,11%;

- Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,12%;

 - Nhóm giao thông tăng 3,55%;

- Bưu chính viễn thông  giảm 0,32%;

- Văn hóa, giải trí, du lịch giảm 0,02%;

- Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,16%.

* Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ:

Chỉ số giá vàng so với tháng trước tăng 1,12%, bình quân 6 tháng so với cùng kỳ giảm 4,6%, so với kỳ gốc 2009 tăng 64,45%.

Chỉ số giá đô la Mỹ (USD) tăng 0,46% so với tháng trước, bình quân 6 tháng so với cùng kỳ tăng 1,96%, so với kỳ gốc 2009 tăng 22,58%.

5. Thu, chi ngân sách Nhà nước

a. Thu ngân sách

Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước 6 tháng thực hiện 1.275,7 tỷ đồng, bằng 51% dự toán địa phương giao và tăng 11,4% so với cùng kỳ; trong đó, thu nội địa ước thực hiện 1.142,7 tỷ đồng, bằng 54,2% dự toán địa phương giao, tăng 17,4%; thu thuế xuất nhập khẩu ước thực hiện 132,9 tỷ đồng, bằng 34,1% dự toán địa phương giao, bằng 77,6% so với cùng kỳ.

Trong tổng số thu ngân sách 6 tháng đầu năm 2015, so với dự toán có 7/15 khoản thu tăng trưởng khá và đạt tiến độ từ 50% dự toán năm, đó là: Thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đạt 66,3%, lệ phí trước bạ đạt 59%, thu tiền sử dụng đất đạt 61,3%, thuế bảo vệ môi trường đạt 126,8%, thuế thu nhập cá nhân đạt 58,7%, thu khác ngân sách trong cân đối đạt 95,7%, thu cấp quyền khai thác khoáng sản đạt 227,8% dự toán địa phương giao. Còn lại 8 khoản thu chưa đạt tiến độ.

b. Chi ngân sách

Tổng chi NSNN trên địa bàn ước 6 tháng thực hiện 5.223,8 tỷ đồng; chi đầu tư phát triển 1.904,1 tỷ đồng; chi thường xuyên 3.319,7 tỷ đồng.

Nhìn chung, các khoản thu ngân sách nhà nước được tập trung đầy đủ, kịp thời và điều tiết đúng theo tỷ lệ cho các cấp ngân sách; các khoản chi ngân sách được chi trả kịp thời, đảm bảo đúng chế độ quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước trên địa bàn.

 

            II. XÃ HỘI

1. Giáo dục và đào tạo

Hết học kỳ II năm học 2014 - 2015 đã có 8/8 huyện, thị xã, thành phố với 100% xã, phường, thị trấn được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ. Hầu hết các đơn vị trường học và trung tâm giáo dục thường xuyên đã triển khai nhiều giải pháp tích cực nhằm huy động số lượng học sinh trong độ tuổi đến lớp. Công tác quản lý dạy và học được thực hiện nghiêm túc. Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở thực sự đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể và địa phương được quan tâm đẩy mạnh. Đến nay, đã có 157/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi (đạt 98,74%). Đã có 8/8 huyện, thị xã, thành phố với 158/159 xã/phường/thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở (đạt 99,37%).

- Giáo dục mầm non

           Tổng số trường mầm non, trường mẫu giáo và cơ sở nhà trẻ hiện có 179 trường, không thay đổi so với cùng kỳ, trong đó trường mầm non có 177 trường, tăng 1 trường so với cùng kỳ; trường mẫu giáo có 1 trường, giảm 1 trường so với cùng kỳ; 1 cơ sở nhà trẻ, không thay đổi so với cùng kỳ. Lớp học mẫu giáo có 1.509 lớp, tăng 26 lớp. Giáo viên trực tiếp giảng dạy mẫu giáo có 2.866 giáo viên, tăng 132 giáo viên. Học sinh mẫu giáo có 42.097 cháu, tăng 2.212 cháu so với cùng kỳ; trong tổng số 42.097 cháu mẫu giáo có 40.416 cháu học công lập, chiếm 96,01%; 574 cháu học dân lập, chiếm 1,36%; 1.107 cháu học tư thục, chiếm 2,63%.

- Giáo dục phổ thông

Kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh: Kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 9, lớp 11 và lớp 12 diễn ra từ ngày 17 đến ngày 18 tháng 3 năm 2015. Năm nay, kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 12 được tổ chức thi cùng đợt với lớp 9 và lớp 11 với 9 môn văn hóa: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Tiếng Anh và Tin học. Toàn tỉnh có 2.953 em học sinh dự thi, đã có 1.381 em đạt giải. Trong đó: Học sinh lớp 9 bậc THCS có 459/942 em dự thi đạt giải, chiếm tỷ lệ 48,73% (18 giải nhất, 72 giải nhì, 146 giải ba và 223 giải khuyến khích); Học sinh lớp 11 bậc THPH có 489/1.137 em dự thi đạt giải, chiếm tỷ lệ 43,01% (23 giải nhất, 88 giải nhì, 134 giải ba và 244 giải khuyến khích); Học sinh lớp 12 bậc THPT có 433/874 em dự thi đạt giải, chiếm tỷ lệ 49,54% (24 giải nhất, 75 giải nhì, 136 giải ba và 198 giải khuyến khích).

Kết quả thi học sinh giỏi cấp Quốc gia: Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2014 - 2015 có 9 đội tuyển với 57 em tham gia. Kết quả đã có 32/57 em đạt giải (1 giải nhất, 1 giải nhì, 14 giải ba và 16 giải khuyến khích).

 Thi giải toán trên máy tính Casio cấp Quốc gia: Có 7/14 học sinh dự thi đạt giải (6 giải ba và 1 giải khuyến khích). Tham gia cuộc thi Olympic “Tài năng Tiếng Anh” toàn quốc dành cho học sinh phổ thông năm 2015 đạt 4 giải/6 học sinh dự thi (1 giải nhất, 1 giải nhì và 2 giải ba). Tham gia cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia học sinh THCS và THPT năm 2015 đã đạt được 5 giải (2 giải ba và 3 giải khuyến khích).

Về tình hình học sinh bỏ học:

Năm học 2014-2015, toàn tỉnh có 521 học sinh bỏ học chiếm 0,34%, trong đó, cấp tiểu học có 5 em chiếm 0,003%; cấp trung học cơ sở có 167 em chiếm 0,108%; cấp trung học phổ thông có 349 em bỏ học chiếm 0,225%.

Kỳ thi THPT Quốc gia năm học 2014 - 2015

Năm học 2014 - 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đổi mới phương pháp thi tốt nghiệp THPT và thi cao đẳng, đại học chỉ với một kỳ thi chung THPT Quốc gia nhằm lấy kết quả công nhận tốt nghiệp THPT và làm căn cứ tuyển sinh đào tào nghề, cao đẳng, đại học. Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định giao 38 trường đại học chủ trì các cụm thi liên tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì cụm thi dành cho thí sinh dự thi chỉ để xét công nhận tốt nghiệp THPT. Đối với tỉnh Quảng Bình, các thí sinh chỉ để xét công nhận tốt nghiệp THPT sẽ tham gia thi tại tỉnh do Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì. Các thí sinh có nguyện vọng sử dụng kết quả để tuyển sinh đại học, cao đẳng sẽ tham gia dự thi tại tỉnh Thừa Thiên Huế do Đại học Huế chủ trì.

Theo báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo, số lượng thí sinh dự thi tại cụm thi địa phương (để lấy kết quả xét tốt nghiệp), có 4.641/12.285 thí sinh đăng ký dự thi, chiếm tỷ lệ 37,78%; toàn tỉnh thành lập 15 điểm thi (huyện Minh Hóa: 1 điểm, huyện Tuyên Hóa: 3 điểm, huyện Quảng Trạch và Thị xã Ba Đồn: 3 điểm, huyện Bố Trạch: 3 điểm, thành phố Đồng Hới: 2 điểm, huyện Quảng Ninh: 1 điểm và huyện Lệ Thủy: 2 điểm). Tổng số thí sinh dự thi tại cụm thi Đại học Huế, có 7.644/12.285 thí sinh đăng ký dự thi, chiếm tỷ lệ 62,22%.

Theo kế hoạch, kỳ thi THPT Quốc gia sẽ diễn ra từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 7 năm 2015 với 8 môn thi: Toán, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Vật lý, Hóa học, Sinh học và Ngoại ngữ. Môn Toán, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý thi theo hình thức tự luận; Vật lý, Hóa học, Sinh học thi theo hình thức trắc nghiệm; Ngoại ngữ vừa thi viết và trắc nghiệm.

Tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2015 - 2016

Năm học 2015 - 2016, về cơ bản các trường THPT trên toàn tỉnh sẽ tổ chức xét tuyển học sinh lớp 10 THPT, chỉ một số trường THPT có số thí sinh đăng ký xét tuyển vượt chỉ tiêu tuyển sinh trên 10% mới tổ chức thi tuyển. Theo kế hoạch kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT được tổ chức từ ngày 19/6 đến ngày 20/6/2015 theo phương thức thi tuyển 3 môn: Toán, Ngữ văn và Anh văn.

Đối với các học sinh đăng ký thi vào trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp, dự thi tại Hội đồng thi THPT chuyên Võ Nguyên Giáp gồm 3 môn chung Toán, Ngữ văn và Tiếng Anh, môn chuyên được đăng ký không quá 2 môn chuyên (nếu không trùng lịch thi) và thi vào ngày 21/6/2015. Việc tuyển sinh vào lớp 10 THPT chuyên Võ Nguyên Giáp năm nay sẽ dựa vào điểm thi, các môn thi không chuyên (Toán, Ngữ văn, Tiếng Anh) hệ số 1, điểm bài thi môn chuyên hệ số 2 và điểm khuyến khích (nếu có). Riêng Trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh sẽ thực hiện việc tuyển sinh theo Công văn số 7977/THPT ngày 10/8/2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trung tâm giáo dục thường xuyên thực hiện theo phương thức xét tuyển.

          - Đào tạo

Năm 2015, Trường Đại học Quảng Bình được giao 2.000 chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy với 1.200 chỉ tiêu Đại học và 800 chỉ tiêu Cao đẳng. Năm nay, do có sự đổi mới về phương thức thi tuyển, Trường Đại học Quảng Bình sẽ tổ chức tuyển sinh dựa trên kết quả của kỳ thi THPT Quốc gia và hồ sơ đăng ký xét tuyển của thí sinh. Riêng ngành Giáo dục mầm non, Cao đẳng sư phạm Mỹ thuật, Cao đẳng sư phạm Âm nhạc, Cao đẳng Giáo dục thể chất, Trường sẽ tổ chức thi thêm các môn năng khiếu để lấy kết quả xét tuyển (lịch thi các môn năng khiếu từ ngày 8 đến ngày 10/7/2015).

Các trường trung cấp chuyên nghiệp (THCN) đang thực hiện đa dạng hoá các ngành nghề, các loại hình đào tạo để duy trì và mở rộng quy mô đào tạo. Tổng số học viên đang học THCN hiện có 1.702 người, trong đó dài hạn 1.599 người, hệ vừa làm vừa học 103 người. Trong tổng số học viên đang học THCN, số học viên tuyển mới 861 người, trong đó tuyển mới hệ chính quy dài hạn 773 người (nữ 444 người); tuyển mới hệ vừa làm vừa học 88 người. Tổng số học viên đào tạo sơ cấp nghề các trường THCN hiện có 2.992 người, giảm 115 người so với cùng kỳ.

2.  Y tế

Sáu tháng đầu năm 2015, ngành Y tế tích cực triển khai các biện pháp phòng chống các loại bệnh dịch trong mùa hè, tập trung kiểm tra các cơ sở chế biến thức ăn sẵn ở các khách sạn, nhà hàng. Chỉ đạo giám sát 3 nguồn có nguy cơ lây bệnh cao, đó là: Thực phẩm, nguồn nước và vệ sinh môi trường. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân, nhất là tuyến y tế cơ sở và địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo khó khăn. Triển khai tích cực việc cấp thẻ bảo hiểm cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, bảo hiểm y tế tự nguyện, đảm bảo kịp thời quyền lợi cho nhân dân. Ngành Y tế đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Đảm bảo cung ứng đủ thuốc, không để bệnh nhân thiếu thuốc tại các cơ sơ điều trị, bình ổn giá thuốc, thị trường thuốc lành mạnh.

Hoạt động khám chữa bệnh trong những tháng đầu năm 2015 hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn về khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng tiến độ. Ước tính 6 tháng đầu năm 2015 toàn tỉnh có 592.907 lần người được khám chữa bệnh, trong đó tuyến tỉnh 65.648 lần người; tuyến huyện/thành phố 225.462 lần người; tuyến xã/phường/thị trấn 301.797 lần người. Nhìn chung, hoạt động khám chữa bệnh đã thực hiện tốt các quy chế chuyên môn, quy trình kỷ thuật bệnh viện, đáp ứng nhu cầu khám, thu dung điều trị người bệnh, thực hiện y đức. Các cơ sở y tế đã phát huy hiệu quả máy móc, trang thiết bị hiện có như: máy nội soi, máy siêu âm, máy thở, máy xét nghiệm nhiều thông số… Nên cơ bản đã đảm bảo an toàn điều trị, nâng cao chất lượng chăm sóc điều dưỡng cho người bệnh.

Đến nay toàn tỉnh hiện có 159/159 xã/phường/thị trấn có trạm y tế; 100% trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sĩ làm việc, 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động được trả phụ cấp ổn định, 100% trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh.

Ngành Y tế đã tích cực tiến hành kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm 8 huyện, thị xã, thành phố. Nhờ làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn thực phẩm, nên từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chưa xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm và số người bị ngộ độc thực phẩm nào.

Công tác giám sát dịch bệnh thực hiện chặt chẽ; ngành Y tế đã chủ động triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh, chú trọng phòng chống dịch cúm A (H5N1), tay - chân - miệng và các dịch bệnh truyền nhiểm nguy hiểm khác. Theo báo cáo của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, luỹ kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 2 trường hợp sốt xuất huyết. Luỹ kế từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 14 trường hợp Tay - chân - miệng. Tiêu chảy đã xảy ra 2.177 trường hợp; lỵ trực trùng 296 trường hợp; lỵ a míp 89 trường hợp; viêm gan vi rút 39 trường hợp; thủy đậu 291 trường hợp; quai bị 166 trường hợp; cúm 7.831 trường hợp. Các loại dịch bệnh khác như: Tả, Thương hàn, Viêm màng não do NMC, Viêm não vi rút, Sởi, Cúm A (H5N1) chưa xảy ra trên các địa bàn của tỉnh. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra. Công tác điều tra, giám sát cũng được thực hiện nghiêm túc tại các đơn vị y tế trên địa bàn toàn tỉnh.

Từ đầu năm đến 31/5/2015, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 4.314 lượt người, giảm 3,4% so cùng kỳ năm 2014. Điều trị bệnh nhân sốt rét 261 người, giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2014, không có bệnh nhân sốt rét ác tính; không có bệnh nhân tử vong do sốt rét, đã tiến hành xét nghiệm được 24.361 lam và que thử; tỷ lệ ký sinh trùng/lam 0,6%. Hiện nay, các đơn vị đã tổ chức giám sát kịp thời tình hình sốt rét gia tăng trên địa bàn, chuẩn bị chu đáo cho công tác triển khai phun tẩm hóa chất phòng chống véc tơ. Trung tâm phòng chống Sốt rét tỉnh đã phân phối kịp thời thuốc, hóa chất, vật tư phòng chống sốt rét cho cơ sở.

3. Văn hóa, thể dục, thể thao

a. Văn hóa thông tin

Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Phòng Văn hóa Thông tin các huyện, thị xã, thành phố đã triển khai có hiệu quả hoạt động trên các lĩnh vực và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, quê hương. Sở Thông tin và Truyền thông đã chỉ đạo các đơn vị tập trung tuyên truyền các thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng… Các hoạt động kỷ niệm được tổ chức trang trọng, thiết thực, tiết kiệm, hiệu quả và an toàn, tạo hiệu ứng xã hội, cổ vũ tinh thần lao động sản xuất của nhân dân trong tỉnh.

  Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển rộng khắp, phục vụ có hiệu quả các ngày lễ kỷ niệm, nhiệm vụ chính trị của các địa phương. Tổ chức biểu diễn phục vụ cán bộ, chiến sĩ, đồng bào vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Trong đó, tiêu biểu là Thành phố Đồng Hới tổ chức chương trình văn nghệ quần chúng với chủ đề "Đất nước trọn niềm vui"; huyện Minh Hóa tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ đặc sắc nhân Lễ hội Rằm Tháng Ba; hoạt động lễ hội Đền Liễu Hạnh Công chúa huyện Quảng Trạch cũng thu hút đông đảo khách thập phương và các tầng lớp nhân dân tham gia; Thị xã Ba Đồn và huyện Minh hóa tổ chức trưng bày ảnh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Công tác thanh tra, kiểm tra tiếp tục được chú trọng. Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác tuyên truyền, cổ động trực quan và buộc các tổ chức, cá nhân có liên quan tháo dỡ các panô, băng rôn, áp phích đã hết thời hạn tuyên truyền, nội dung không còn phù hợp hoặc cũ nát để không làm ảnh hưởng tới mỹ quan trong mùa du lịch, lễ hội trên địa bàn tỉnh; kiểm tra, nhắc nhở và xử lý đối với các cá nhân thực hiện quảng cáo nhưng không có giấy phép. Tính đến nay, Thanh tra Sở đã tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với 53 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa; 2 Ban quản lý di tích; 46 cơ sở gồm: 1 trung tâm du lịch, 2 khu du lịch, 1 cơ sở lữ hành - lưu trú du lịch, 12 cơ sở lữ hành, 30 cơ sở lưu trú du lịch; xử phạt vi phạm hành chính 6 cơ sở với tổng số tiền là 23 triệu đồng.

Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" tại các địa phương trong tỉnh đã đạt được những kết quả khả quan, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và tạo sự chuyển biến không ngừng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Ban chỉ đạo các cấp đã có nhiều biện pháp tích cực trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện phong trào. Trên cơ sở đó, Ban chỉ đạo cơ sở đã cụ thể hóa và vận dụng linh hoạt các nội dung, tiêu chí bình xét danh hiệu thôn, bản, khu phố văn hóa.

           b. Hoạt động thể dục, thể thao

          - Thể thao quần chúng  

Sáu tháng đầu năm, các địa phương, đơn vị đã tổ chức nhiều hoạt động thể dục thể thao, nhất là các môn thể thao truyền thống mừng Đảng, mừng Xuân, mừng các Lễ kỷ niệm của đất nước của tỉnh. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã hướng dẫn, giúp đỡ các địa phương, đơn vị tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao, nhất là các môn thể thao truyền thống kỷ niệm ngày Giải phóng miền Nam (30/4) và ngày Quốc tế Lao động (01/5), ngày Chiến thắng Biện Biên phủ (07/5), ngày sinh Bác Hồ kính yêu (19/5)...

 Trong thời gian qua, UBND thành phố Đồng Hới đã tổ chức thành công lễ hội đua thuyền truyền thống thành phố Đồng Hới thu hút gần 200 VĐV tham gia; tổ chức Lễ phát động hưởng ứng ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2015 với sự tham gia của gần 600 người. Cùng thời gian này, trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố trong toàn tỉnh cũng diễn ra ngày chạy Olympic ở cấp xã, phường, thị trấn. Toàn tỉnh đã có 141/159 xã, phường, thị trấn tổ chức lễ phát động hưởng ứng ngày chạy Olympic. Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Giải bóng chuyền Công nhân viên chức lao động lần thứ XX năm 2015, thu hút gần 250 VĐV tham gia.

       - Thể thao thành tích cao

Từ ngày 16 - 23/5/2015, tại Nhà thi đấu Công an tỉnh, Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức thi đấu vòng bảng Giải bóng chuyền hạng A toàn quốc năm 2015. Tham dự Giải bóng chuyền hạng A toàn quốc năm 2015 có 28 đội bóng, trong đó 18 đội nam và 10 đội nữ. Kết quả là đội bóng chuyền nam Công an Quảng Bình xếp thứ nhì, là 1 trong 5 đội bóng được tham gia thi đấu Vòng bán kết Giải bóng chuyền hạng A toàn quốc 2015 (từ ngày 04 - 17/7/2015) tại Giao Thủy, Nam Định.

Từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao Quảng Bình đã tham gia thi đấu các giải khu vực, toàn quốc và quốc tế đạt được: 108 huy chương các loại (32 HCV, 32 HCB, 44 HCĐ). Nổi bật, tại giải Điền kinh Đông Nam Á thi đấu tại Malaixia vận động viên Quảng Bình đã dành được 01 huy chương đồng, hiện tại có 1 vận động viên đang tham gia thi đấu Seagames 28 tại Singapore.

           4. Trật tự an toàn xã hội

 An toàn giao thông

Từ đầu năm đến nay, Công an tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng tăng cường công tác tuần tra kiểm soát, xử lý triệt để các hành vi vi phạm về trật tự an toàn giao thông, với tinh thần quyết liệt, thường xuyên và liên tục, không bỏ trống địa bàn, thời gian trọng điểm. Đặc biệt là đã xử lý triệt để, kiên quyết và nghiêm túc các hành vi vi phạm như: Chạy quá tốc độ quy định; tránh vượt sai quy định; đi không đúng phần đường, làn đường, xe hết niên hạn sử dụng, không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, chở quá số người quy định; sử dụng rượu bia hoặc các chất kích thích khác quá quy định; chạy không đúng tuyến; không có sổ nhật trình... Nhờ đó tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong 5 tháng đầu năm 2015 giảm cả về số vụ, số người chết và số người bị thương.

Theo báo cáo của Công an tỉnh, 5 tháng đầu năm 2015, toàn tỉnh đã xảy ra 120 vụ tai nạn giao thông, giảm 33 vụ so cùng kỳ năm 2014, trong đó đường bộ 113 vụ, giảm 38 vụ; đường sắt 7 vụ, tăng 5 vụ; đường thuỷ không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 58 người, giảm 2 người so với cùng kỳ năm 2014, trong đó đường bộ chết 54 người, giảm 4 người; đường sắt chết 4 người, tăng 2 người; đường thuỷ không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 122 người, giảm 11 người so cùng kỳ năm 2014, trong đó đường bộ bị thương 120 người, giảm 13 người; đường sắt bị thương 2 người, tăng 2 người so với cùng kỳ năm 2014.

- An toàn xã hội và pháp luật

Năm tháng đầu năm 2015, các ngành chức năng đã tăng cường công tác chỉ đạo và triển khai quyết liệt các biện pháp nhằm trấn áp mạnh các loại tội phạm; tăng cường công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, vũ khí, vật liệu nổ, các ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự; chỉ đạo các lực lượng đẩy mạnh công tác tuần tra, kiểm soát trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, kịp thời phát hiện, xử lý các vụ buôn lậu, buôn bán hàng cấm hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm; triển khai biện pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm liên quan đến pháo, chất nổ, sử dụng quả nổ tự tạo trái phép; phòng chống cháy, nổ... Nhờ đó, các loại tội phạm kinh tế và hình sự xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Bình 5 tháng đầu năm 2015 có giảm đáng kể cả về số vụ và đối tượng vi phạm.

Theo báo cáo của Công an tỉnh, 5 tháng đầu năm 2015, phạm pháp kinh tế không xảy, so với cùng kỳ năm 2014, số vụ giảm 3 vụ đối tượng vi phạm giảm 9 người; Phạm pháp hình sự 214 vụ với 270 đối tượng phạm tội, so cùng kỳ năm 2014, số vụ giảm 82 vụ, đối tượng phạm tội giảm 113 người; buôn bán, vận chuyển ma túy bị phát hiện 26 vụ với 38 đối tượng vi phạm, so cùng kỳ năm 2014 số vụ tăng 6 vụ, đối tượng vi phạm tăng 2 người; sử dụng ma túy bị phát hiện 21 vụ với 30 đối tượng vi phạm, so cùng kỳ năm 2014, số vụ tăng 10 vụ và đối tượng vi phạm tăng 10 người.

 Tóm lại, kinh tế - xã hội sáu tháng đầu năm duy trì mức tăng trưởng ổn định, có những chuyển biến tích cực trong điều kiện gặp nhiều khó khăn. Sản xuất vụ Đông Xuân được mùa, chăn nuôi phát triển khá, dịch bệnh được khống chế kịp thời, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản tăng trưởng khá; sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển; hoạt động du lịch được quan tâm đầu tư quảng bá; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; đời sống của đại bộ phận nhân dân được nâng lên, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo… Tuy nhiên, dự báo trong thời gian tới tình hình kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, kinh tế thế giới phục hồi chậm; kinh tế - xã hội nước ta có nhiều thuận lợi nhưng cũng còn không ít khó khăn, thách thức sẽ tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Do đó, đòi hỏi tỉnh phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tranh thủ thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức để hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, trong đó cần tập trung quan tâm:

- Theo dõi sát tình hình hạn hán, triển khai kịp thời các phương án bảo đảm cho sản xuất vụ Hè Thu. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho nông dân, nhất là về tiêu thụ nông sản, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới;

- Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, trong đó triển khai đồng bộ các biện pháp khơi thông dòng vốn, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh; thúc đẩy phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo kế hoạch, phương án đã được duyệt, xử lý các khó khăn, vướng mắc trong tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước;

- Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để thực hiện phương án và lộ trình thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xây dựng;

- Chú trọng đầu tư về cơ sở hạ tầng và nhân lực cho ngành du lịch; đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, trong đó đẩy mạnh phát triển các loại hình du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng. Tiếp tục đầu tư xúc tiến, quảng bá tiềm năng của du lịch Quảng Bình đến với du khách trong nước và quốc tế;

- Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, triển khai có hiệu quả các chương trình giảm nghèo bền vững, hỗ trợ hộ cận nghèo, xây dựng nông thôn mới. Quan tâm thực hiện tốt các chính sách người có công, các đối tượng chính sách xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa - xã hội. Đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo; giảm tai nạn giao thông, xử lý nghiêm xe cơi nới, chở quá tải;

- Tiếp tục thực hiện hiệu quả các giải pháp giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tăng cường tuyên truyền các biện pháp phòng chống dịch bệnh, trong đó chú trọng công tác giáo dục, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh để tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng đồng.

                - Thực hiện tốt công tác chuẩn bị tổ chức kỳ thi chung tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2015; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc dạy thêm, học thêm./.

[Trở về]