THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2021 tỉnh Quảng Bình 

         Trong thời gian cuối tháng 8 và tháng 9 năm 2021, dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp, với nhiều ca lây nhiễm trong cộng đồng đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất - kinh doanh của hầu hết các cơ sở kinh tế, doanh nghiệp và đời sống của Nhân dân. Trước diễn biến phức tạp của dịch, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các địa phương triển khai kịp thời, quyết liệt nhiều biện pháp để khống chế dịch. Đến nay, tình hình dịch đã cơ bản được kiểm soát, số ca nhiễm COVID-19 giảm sâu, hầu hết các địa bàn kết thúc giãn cách xã hội và trở lại trạng thái bình thường mới.

          Hiện nay, toàn tỉnh đang đẩy nhanh tiến độ tiêm vắc xin phòng COVID-19 và triển khai hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người dân khôi phục dần và đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, qua đó góp phần hoàn thành cao nhất chỉ tiêu Kế hoạch năm 2021.

          I. KINH TẾ

          1. Nông nghiệp

          a) Trồng trọt

         Đến nay, các sản phẩm trồng trọt chủ yếu của vụ Hè Thu năm 2021 cơ bản đã hoàn thành thu hoạch. Sản xuất vụ Hè Thu năm nay trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi, tuy vào cuối Vụ (trong tháng 10) có mưa lớn đã làm ngập úng một số diện tích cây trồng, nhưng không gây ảnh hưởng nhiều đến năng suất, sản lượng của các loại cây trồng. Đánh giá chung, vụ Hè Thu năm nay cơ bản được mùa, nhiều cây trồng cho năng suất, sản lượng cao hơn vụ Hè Thu năm trước.

          Sơ bộ diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Hè Thu thực hiện 36.684,4 ha, tăng 2,5% so với vụ Hè Thu năm trước. Cụ thể các cây trồng như sau:

          - Cây lúa: Diện tích lúa thực hiện 23.595,3 ha, tăng 2,0% so với vụ Hè Thu năm trước. Diện tích lúa Hè Thu gieo cấy tăng là do hệ thống thủy lợi tưới tiêu nước hiệu quả, đảm bảo đủ nguồn nước phục vụ cho nhu cầu gieo cấy.

          Ước tính năng suất lúa bình quân chung toàn tỉnh đạt 43,35 tạ/ha, tăng 11,5% so với vụ Hè Thu năm trước. Năng suất lúa các địa phương: Thành phố Đồng Hới đạt 55,42 tạ/ha, thị xã Ba Đồn đạt 56,50 tạ/ha, huyện Minh Hóa đạt 44,60 tạ/ha, huyện Tuyên Hóa đạt 53,21 tạ/ha, huyện Quảng Trạch đạt 57,80 tạ/ha, huyện Bố Trạch đạt 50,41 tạ/ha, huyện Quảng Ninh đạt 53,24 tạ/ha, huyện Lệ Thủy đạt 26,89 tạ/ha (năng suất lúa huyện Lệ Thủy đạt thấp hơn các địa phương do năng suất lúa tái sinh đạt thấp).

          - Các loại cây trồng khác:

          Diện tích gieo trồng một số cây trồng khác: Cây ngô 637 ha, tăng 22,9%; cây khoai lang 460,2 ha, giảm 11,1%; cây sắn 6.579,6 ha, tăng 5%; cây lạc 541,4 ha, tăng 0,2 %; cây rau các loại 1.835,8 ha, giảm 1,9%; đậu các loại 953,5 ha, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước.

          Năng suất gieo trồng các loại cây trồng khác: Cây ngô đạt 37,74 tạ/ha, tăng 3,0%; cây khoai lang đạt 57,62 tạ/ha, tăng 1,4%; cây sắn đạt 182,75 tạ/ha, tăng 3,4%; cây lạc đạt 17,68 tạ/ha, tăng 7,7%; cây rau các loại đạt 92,53 tạ/ha, giảm 6,6%; cây đậu các loại đạt 9,06 tạ/ha, tăng 30,4% so với vụ Hè Thu năm trước.

          Sơ bộ sản lượng lương thực vụ Hè Thu đạt 104.701,4 tấn, tăng 14,0% so với vụ Hè Thu năm trước. Trong đó: Sản lượng lúa đạt 102.294 tấn, tăng 13,7%; ngô đạt 2.403,8 tấn, tăng 26,6%; kê đạt 3,6 tấn, bằng 28,6% so với vụ Hè Thu năm trước. Sản lượng một số cây trồng chủ yếu khác: Sản lượng khoai lang 2.651,2 tấn, giảm 9,8%; sản lượng sắn 120.239,9 tấn, tăng 8,5%; sản lượng lạc 957,4 tấn, tăng 8,0%; sản lượng rau các loại 16.987,1 tấn, giảm 8,4%; sản lượng đậu các loại 863,9 tấn, tăng 33,2% so với vụ Hè Thu năm trước.

          b) Chăn nuôi

          Sản xut chăn nuôi trong thời gian này gp khá nhiu khó khăn do dịch bệnh và thị trường tiêu thụ. Tuy dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm (dịch tả lợn châu Phi, bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò,…) đã cơ bản được kiểm soát, nhưng giá thịt hơi xuất chuồng liên tiếp giảm mạnh (nhất là giá thịt lợn hơi giảm sâu), chi phí chăn nuôi, giá thức ăn chăn nuôi cao khiến các cơ sở chăn nuôi lỗ, không muốn tái đàn.

          Ước tính sn lượng thịt hơi xut chung tháng 10 năm 2021 đạt 5.425 tn, tăng 3,8% so vi cùng k năm trước. Trong đó: Tht trâu 85 tn, gim 2,3%; tht bò 715 tn, tăng 4,2%; tht ln 2.535 tn, tăng 4,0%; tht gia cm 2.090 tn, tăng 3,8% so với cùng k năm trước (riêng tht gà 1.360 tn, tăng 4,6%).

          Sản lượng thịt hơi xut chung 10 tháng năm 2021 đạt 59.747 tn, tăng 1,4% so vi cùng k năm trước. Trong đó: Tht trâu 1.565 tn, gim 3,8%; tht bò 7.548 tn, tăng 11,0%; tht ln 30.915 tn, gim 2,5%; tht gia cm 19.719 tn, tăng 4,8% (riêng tht gà 14.540 tn, tăng 5,7%) so với cùng k năm trước.

          Tình hình dch bnh gia súc, gia cầm như sau:

          - Dịch bệnh viêm da ni cc trên trâu,: Đến ngày 19/10/2021, dch bnh viêm da ni cc đã xut hin ti 6.261 h/684 thôn/125 xã/8 huyn, th xã, thành ph làm 10.070 con trâu, bò mc bnh, trong đó 1.339 con trâu, bò chết do bnh. Hin nay, có 98 xã, phường/8 huyn, th xã, thành ph đã công b hết dch bnh viêm da nổi cục và 21 xã/4 huyện chưa qua 21 ngày (6 xã không công b dịch).

          Đến ngày 19/10/2021, dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra ở 246 hộ/83 thôn/41 xã/8 huyện, thị xã, thành phố làm 2.051 con lợn chết, tiêu hủy với tổng trọng lượng là 119.968 kg. Trong đó có 35 xã đã công bố hết dịch, còn 06 xã chưa qua 21 ngày (xã Quảng Minh - thị xã Ba Đồn; Sơn Hóa, thị trấn Đồng Lê - huyện Tuyên Hóa; xã Trường Xuân - huyện Quảng Ninh; xã Liên Trường, xã Cảnh Hóa - huyện Quảng Trạch).

          2. Lâm nghiệp

          Đầu tháng 10, các chủ rừng chủ động triển khai công tác trồng rừng theo kế hoạch năm 2021. Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 10 thực hiện 1.150 ha, tăng 4,6%; 10 tháng thực hiện 5.585,6 ha, tăng 30,3% so với cùng kỳ năm trước. Cây lâm nghiệp trồng phân tán tháng 10 thực hiện 675 ngàn cây, giảm 0,7%; 10 tháng thực hiện 3.400 ngàn cây, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước.

          Ước tính sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tháng 10 đạt 59.000 m3, giảm 0,8%; 10 tháng đạt 450.000 m3, giảm 1,0% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác tháng 10 đạt 34.500 ste, giảm 0,6%; 10 tháng đạt 305.000 ste, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước.

          Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được các cấp, các ngành quan tâm. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật nhằm nâng cao ý thức bảo vệ rừng cho người dân vùng có rừng; tổ chức tập huấn công tác phòng chống, cháy rừng và cứu nạn, cứu hộ cho người dân trong mùa mưa lũ. Lực lượng kiểm lâm, bảo vệ rừng lâm trường, công an xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ thường trực 24/24 giờ.

          3. Thuỷ sản

         Tháng 10, thời tiết có nhiu din biến phc tp, mưa lớn, bin động mnh nên ngư dân ít ra khơi hơn, tàu nằm bờ không đi khai thác tăng lên nhiều. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ thủy sản bị thu hẹp do ảnh hưởng dịch COVID-19, nhiều sản phẩm thủy sản không xuất khẩu được, giá cả giảm sâu, khai thác không hiệu quả nên ngư dân hạn chế ra khơi. Theo đó, sn lượng thu sn khai thác và nuôi trồng tháng 10 gim so vi cùng k năm trước.

          Ước tính sản lượng thy sn tháng 10 đạt 6.457,5 tn, gim 5,7% so vi cùng k năm trước. Trong đó: Cá các loại đạt 5.100 tn, gim 6,4%; tôm các loại đạt 398 tn, gim 2,7%; thy sn khác đạt 959,5 tn, gim 3,1% so vi cùng k năm trước.

          Ước tính sản lượng thy sn 10 tháng đạt 79.281,5 tn, tăng 2,2% so vi cùng k năm trước. Trong đó: Cá các loại đạt 63.342 tn, tăng 2,3%; tôm các loại đạt 6.993 tn, tăng 4,0%; thy sn khác đạt 8.946,5 tn, tăng 0,1% so vi cùng k năm trước.

          a) Khai thác

          Đang trong mùa mưa bão, tình hình thời tiết có nhiều diễn biến phức tạp, nên thời gian ra khơi khai thác của ngư dân giảm nhiều. Vì vậy, sản lượng khai thác trong tháng 10 đạt thấp so với các tháng trước đây và thấp hơn so với cùng kỳ. Ước tính sản lượng khai thác tháng 10 đạt 5.246 tấn, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước.

         Ước tính sản lượng khai thác 10 tháng đạt 67.488 tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 57.413 tấn, tăng 2,8%; tôm các loại 1.292 tấn, tăng 2,1%; thuỷ sản khác 8.783 tấn, bằng 100% so với cùng kỳ năm trước. Sản phẩm chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 63.908 tấn, tăng 2,7%; khai thác nội địa 3.580 tấn, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước.

          b) Nuôi trng

          Tháng 10 các địa phương tập trung thu hoạch sản phẩm từ nuôi trồng tránh thiệt hại do lũ lụt. Do chi phí xăng, dầu, thức ăn thủy sản tăng nhưng giá nhiều loại thủy sản giảm nên người nuôi trồng gặp khó khăn.

         Ước tính tháng 10, sản lượng nuôi trồng thu hoạch 1.211,5 tấn, giảm 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 870 tấn, giảm 2,4%; tôm các loại 315 tấn, giảm 1,8%; thuỷ sản khác 26,5 tấn, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm trước.

         Ước tính 10 tháng, sản lượng nuôi trồng thu hoạch 11.793,5 tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 5.929 tấn, giảm 2,0%; tôm các loại 5.701 tấn, tăng 4,4%; thuỷ sản khác 163,5 tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước.

         Để tránh thiệt hại do mưa lũ, các hộ nuôi trồng thủy sản ở những địa bàn có khả năng ngập lụt trong mùa mưa bão gia cố bờ bao, tiếp tục chăm sóc để thu hoạch trong những tháng cuối năm.

          4. Công nghiệp

          Hiện nay, tình hình dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát, các cơ sở công nghiệp đã trở lại sản xuất với tinh thần vừa phát triển kinh tế vừa phòng chống dịch. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp gặp khó khăn do thiếu lao động, chi phí sản xuất tiếp tục tăng (giá nguyên nhiên vật liệu và chi phí vận chuyển, bốc xếp tăng; chi phí phòng chống dịch,…). Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động để bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị,… vì vậy sản xuất công nghiệp có mức tăng thấp so với cùng kỳ.

          Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 10 năm 2021 ước tính tăng 5,7% so với tháng trước và tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 6,7% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,4%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 15,1%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước.

          Tính chung 10 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 4,7%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,0%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 13,9%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù ngành chủ lực công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng thấp so với cùng kỳ, nhưng để duy trì và đạt được chỉ số sản xuất như trên là sự nỗ lực rất lớn của doanh nghiệp, cùng chính sách linh hoạt trong chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành trong thời gian qua.

          Chỉ số sản xuất 10 tháng năm 2021 của một số ngành cấp 2 tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất và phân phối điện tăng 13,9% (các doanh nghiệp sản xuất và phân phối điện duy trì hoạt động bình thường, đảm bảo điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng như phòng chống dịch); hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác tăng 9,4%; sản xuất trang phục tăng 8,4%; khai thác thác, xử lý và cung cấp nước tăng 7,0%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 6,8%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 6,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 5,1%;... Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp và giảm so với cùng kỳ năm trước: Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị tăng 1,7%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 1,5%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 0,3%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 0,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 2,0%; sản xuất đồ uống giảm 8,9%. Do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên một số ngành công nghiệp chế biến thủy sản; chế biến tinh bột sắn và ngành may mặc;… gặp khó khăn do thiếu lao động và nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Bên cạnh đó, tiêu thụ sản phẩm cũng khó khăn do chi phí vận tải tăng cao, sản phẩm tiêu thụ giảm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

          Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong 10 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước: Cá đông lạnh đạt 1.856 tấn, tăng 129,9%; ván ép từ gỗ đạt 74.387 m3, tăng 61,1%; tinh bột sắn đạt 9.299 tấn, tăng 30,7%; gạch xây dựng bằng đất nung đạt 333,8 triệu viên, tăng 28,5%; đá xây dựng đạt 3 triệu m3, tăng 6,4%; phân khoáng, phân NPK đạt 31.941 tấn, tăng 4,0%; xi măng đạt 1,5 triệu tấn, tăng 3,8%; clinker thành phẩm đạt 3 triệu tấn, tăng 1,9%; thức ăn cho thủy sản đạt 2.120 tấn, tăng 1,2%; cao su tổng hợp đạt 387 tấn, giảm 5,6%; áo sơ mi đạt 10,1 triệu cái, giảm 6,3%; dăm gỗ đạt 257.936 tấn, giảm 6,4%; cao lanh đạt 46.289 tấn, giảm 10,8%; nước khoáng có ga đạt 7,7 triệu lít, giảm 14,5%.

          5. Vốn đầu tư

          Hoạt động đầu tư các công trình, dự án thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trong những tháng đầu năm 2021 trên địa bàn tỉnh diễn ra tương đối hiệu quả. UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt, tập trung tháo gỡ các vướng mắc trong việc đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, xử lý các điểm nghẽn trong thủ tục đầu tư, xây dựng cơ bản, công tác giải tỏa, đền bù bàn giao mặt bằng, nhất là các công trình trọng điểm nên các công trình, dự án được đẩy nhanh tiến độ thi công. Tuy nhiên, từ cuối tháng 8 đến tháng 9 năm 2021, dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, một số địa phương trong tỉnh phải thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch khiến cho các đơn vị gặp khó khăn trong huy động nhân lực, máy móc, một số công trình, dự án phải tạm ngừng thi công. Bước vào tháng 10, dịch COVID-19 cơ bản đã được kiểm soát, hoạt động xây dựng đầu tư dần được triển khai thực hiện. Tuy nhiên, thời tiết trong tháng không thuận lợi đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai dự án và tiến độ thi công các công trình.

          Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 10 ước tính đạt 273,9 tỷ đồng, tăng 32,3 % so với tháng trước và giảm 23,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 202,2 tỷ đồng, giảm 30,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 43,7 tỷ đồng, tăng 1,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 28,0 tỷ đồng, tăng 24,3% so với cùng kỳ năm trước.

          Tính chung 10 tháng năm 2021, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý đạt 2.611,7 tỷ đồng, giảm 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 1.897,6 tỷ đồng, giảm 15,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 424,6 tỷ đồng, tăng 10,5%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 289,5 tỷ đồng, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong 10 tháng năm 2021, nguồn vốn chủ yếu là tiếp tục đầu tư thi công, nhiều dự án trọng điểm về phát triển cơ sở hạ tầng được triển khai thực hiện, như: Dự án phát triển môi trường, hạ tầng đô thị để ứng phó với biến đổi khí hậu thành phố Đồng Hới; đường từ xã Quảng Lộc đi cụm trung tâm các xã vùng Nam; tuyến đường từ phía cầu Quảng Hải 2 đi ga Lạc Giao; dự án nâng cấp, sửa chữa tuyến kè chống sạt lở và hạ tầng giao thông dọc sông Gianh,… những dự án này sau khi hoàn thành và đưa vào hoạt động sẽ góp phần mang lại hiệu quả thiết thực, nhất là các dự án đường giao thông góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, rút ngắn khoảng cách giữa khu vực nông thôn và thành thị.

          6. Thương mại, dịch vụ

          a) Tổng mức bán lẻ hàng hoá

          Hiện nay, tình hình dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã cơ bản được kiểm soát nên các hoạt động mua bán diễn ra bình thường. Vì vậy tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 10/2021 tăng so với tháng trước.

          Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 10/2021 ước tính đạt 3.232,4 tỷ đồng, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 5,8% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 34.951,5 tỷ đồng, tăng 12,1% so với cùng kỳ, trong đó, tăng cao nhất là nhóm xăng dầu các loại (tăng 26,7%), nguyên nhân do giá xăng dầu tăng cao; nhóm lương thực, thực phẩm tăng 13,3%, nguyên nhân do trong thời gian dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, nhu cầu tích trữ lương thực, thực phẩm của người dân tăng mạnh.

          b) Dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch

          Trong tháng 10/2021, các địa phương trong toàn tỉnh đã cơ bản kiểm soát được dịch COVID-19, UBND tỉnh lên kế hoạch triển khai hoạt động du lịch trong trạng thái bình thường mới; đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, vệ sinh môi trường, chuẩn bị nhân lực và các điều kiện để sẵn sàng đón khách du lịch trước ngày 15/10/2021. Do đó, doanh thu lưu trú, ăn uống và du lịch tháng 10 tăng so với tháng trước; tuy nhiên, do đã hết mùa du lịch nên kết quả đạt được trong tháng 10 không đáng kể, nhiều cơ sở lưu trú, nhà hàng khá vắng khách.

          - Dịch vụ lưu trú:

          Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 10 ước tính đạt 1,3 tỷ đồng, tăng 21,8% so với tháng trước và giảm 83,0% so với cùng kỳ; tính chung 10 tháng năm 2021 đạt 84,9 tỷ đồng, giảm 44,4% so với cùng kỳ.

          Số lượt khách lưu trú tháng 10 ước tính đạt 4.370 lượt khách, tăng 23,0% so với tháng trước và giảm 76,7% so với cùng kỳ; tính chung 10 tháng năm 2021 đạt 243.769 lượt khách, giảm 50,4% so với cùng kỳ.

          Số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 10 ước tính đạt 120 lượt khách, tăng 122,2% so với tháng trước và giảm 87,8% so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2021 đạt 5.875 lượt khách, giảm 83,0% so với cùng kỳ.

          Ngày khách tháng 10 ước tính đạt 4.750 ngày khách, tăng 31,2% so với tháng trước và giảm 78,8% so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2021 đạt 272.348 ngày khách, giảm 54,2% so với cùng kỳ.

          - Dịch vụ ăn uống:

          Dịch vụ ăn uống tháng 10/2021 tăng khá so với tháng trước do các cơ sở ăn uống được phép trở lại hoạt động phục vụ khách tại chỗ. Trong tháng 10, có ngày 20/10 là Ngày Phụ nữ Việt Nam nên nhu cầu ăn uống tăng khá so với tháng trước. Ước tính doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 10 đạt 231,7 tỷ đồng, tăng 15,5% so với tháng trước và tăng 18,0% so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2021 đạt 2.735,4 tỷ đồng, tăng 3,9% so với cùng kỳ.

          - Du lịch lữ hành:

          Doanh thu du lịch lữ hành tháng 10 ước tính đạt 0,4 tỷ đồng, giảm 71,2% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 64,1 tỷ đồng, giảm 47,1% so với cùng kỳ.

          Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 10 ước tính đạt 310 lượt khách, giảm 89,7% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 100.904 lượt khách, giảm 73,0% so với cùng kỳ.

          Số lượt khách quốc tế lữ hành 10 tháng năm 2021 ước tính đạt 3.851 lượt khách, giảm 88,5% so với cùng kỳ.

          c) Dịch vụ khác

          Tháng 10, các cơ sở dịch vụ được hoạt động trở lại, nhu cầu sử dụng dịch vụ của người dân tăng sau thời gian giãn cách xã hội, vì vậy doanh thu dịch vụ khác tăng cao so với tháng trước. Tuy nhiên so với cùng kỳ năm 2020, doanh thu dịch vụ khác giảm do tâm lý e ngại bởi dịch COVID-19 vẫn đang còn tiềm ẩn nguy cơ.

          Doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng 10/2021 ước tính đạt 113,5 tỷ đồng, tăng 15,6% so với tháng trước và giảm 4,8% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2021, doanh thu dịch vụ khác đạt 1.301,9 tỷ đồng, tăng 4,4% so với cùng kỳ. Trong đó, một số nhóm dịch vụ tăng cao như nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 8,9%; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 25,9%; nhóm dịch vụ y tế và hoạt động hoạt động trợ giúp xã hội tăng 13,0%.

          d) Hoạt động vận tải

          Ngày12/10/2021, Sở Giao thông vận tải Quảng Bình đã có Công văn số 2931/SGTVT-QLVT thông báo quy định tạm thời về thí điểm tổ chức hoạt động vận tải hành khách đường bộ đảm bảo thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh. Theo đó, từ ngày 13/10/2021, một số tuyến vận tải hành khách liên tỉnh được phép hoạt động đã tạo điều kiện phục vụ nhu cầu đi lại của Nhân dân, bảo đảm an toàn, thống nhất giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kết nối hiệu quả giữa các phương thức vận tải hành khách; góp phần thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế. Hoạt động kinh doanh vận tải trong tháng 10 đã dần dần phục hồi và có dấu hiệu khởi sắc.

          Tổng doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 10/2021 ước tính đạt 332,3 tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung 10 tháng năm 2021 đạt 3.425,8 tỷ đồng, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước.

          Doanh thu vận tải chia theo loại đường: Doanh thu vận tải đường bộ tháng 10 ước tính đạt 302,8 tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ (năm trước do mưa lũ liên tiếp trong tháng 10 làm vận tải hành khách đường bộ bị tê liệt); 10 tháng năm 2021 đạt 3.099,2 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2020. Doanh thu vận tải đường ven biển và viễn dương tháng 10 ước tính đạt 2,9 tỷ đồng, giảm 0,7% so với tháng trước và giảm 0,3% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 31,1 tỷ đồng, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm 2020. Doanh thu vận tải đường thủy nội địa tháng 10 ước tính đạt 2 tỷ đồng, giảm 13,4% so với tháng trước và giảm 21,7% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 27,2 tỷ đồng, giảm 15,6% so với cùng kỳ năm 2020.

          Vận chuyển hành khách: Tổng số hành khách vận chuyển tháng 10 ước tính đạt 1,9 triệu hành khách, tăng 5,2% so với tháng trước và giảm 11,8% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 21,6 triệu hành khách, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2020. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 10 ước tính đạt 85,1 triệu hành khách.km, tăng 6,0% so với tháng trước và giảm 8,8% so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2021 đạt 981 triệu hành khách.km, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm 2020.

          Vận chuyển hàng hóa: Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 10 ước tính đạt 2,1 triệu tấn, giảm 7,1% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ; 10 tháng năm 2021 đạt 22,6 triệu tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2020. Khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 10 ước tính đạt 122,5 triệu tấn.km, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 12,6% so với cùng kỳ; 10 tháng đạt 1.207,9 triệu tấn.km, tăng 7,5 so với cùng kỳ năm 2020.

          đ) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số Đô la Mỹ

          * Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

          Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 năm 2021 tỉnh Quảng Bình tăng 0,22% so với tháng trước; tăng 5,11% so với kỳ gốc 2019. Chỉ số giá bình quân 10 tháng năm 2021 tăng 1,49% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: nhóm hàng hóa tăng 1,81%; nhóm dịch vụ tăng 0,86%).

          Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 2 nhóm tăng, 2 nhóm giảm và 7 nhóm không đổi so với tháng trước, cụ thể: nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,51%; nhóm giao thông tăng 1,72%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,15%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,03%. Các nhóm: nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, giày dép và mũ nón; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm giáo dục; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch; nhóm hàng hoá và dịch vụ khác có chỉ số không đổi so tháng trước.

          Nguyên nhân làm tăng CPI tháng 10 năm 2021: Tháng 10 tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, hệ thống nhà hàng, khách sạn mở cửa trở lại vì vậy nhu cầu tiêu dùng, mua sắm và đi lại, ăn uống bên ngoài tăng lên làm giá cả một số nhóm mặt hàng có xu hướng tăng. Thời tiết trong tháng mưa nhiều, gây ngập lụt ở nhiều nơi, gây khó khăn cho việc chăm trồng các loại rau, củ, quả làm giá nhóm rau tươi tăng so tháng trước. Từ ngày 01/11/2021, giá gas được điều chỉnh tăng 42.000 đồng/bình 12kg, tăng 10,19% so với tháng trước. Giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh 2 đợt, vào ngày 25/9/2021 và ngày 11/10/2021. Giá xăng tăng 5,61%, dầu Diezen tăng 7,54% so với tháng 9/2021 đã tác động đến chỉ số giá nhóm giao thông tăng 1,72%.

          Bên cạnh nguyên nhân tăng CPI, còn có một số nguyên nhân làm giảm CPI tháng 10 năm 2021: Giá thịt lợn hơi ở địa phương tiếp tục giảm mạnh. Giá nước giảm 0,24% so với tháng trước do lượng nước tiêu thụ giảm. Ảnh hưởng của giá vàng giảm nên giá các mặt hàng trang sức giảm 0,84%. Giá điện tháng này giảm 1,36% so với tháng trước, do bắt đầu vào mùa mưa, thời tiết không còn nắng nóng như các tháng trước.

          * Chỉ số giá vàng 99,99%

          Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước, bình quân tháng 10/2021 giá vàng giảm 0,76% so với tháng trước, giá vàng dao động quanh mức 5,08 triệu đồng/chỉ, tăng 31,83% so với kỳ gốc 2019, giảm 4,18% so với cùng kỳ năm trước và giảm 4,91% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 10 tháng tăng 9,16% so với cùng kỳ năm trước.

          * Chỉ số giá đô la Mỹ (USD)

          Giá đô la Mỹ tháng này có giá bình quân 22.662 đồng/USD, giảm 0,07% so với tháng trước, giảm 1,89% so với kỳ gốc 2019, giảm 1,87% so với cùng kỳ năm trước và giảm 1,64% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 10 tháng giảm 1,22% so với cùng kỳ năm trước.

          7. Thu ngân sách nhà nước, tín dụng

          a) Thu ngân sách nhà nước

          Tổng thu ngân sách trên địa bàn 10 tháng năm 2021 ước tính thực hiện 5.290,3 tỷ đồng, đạt 97,5% so với dự toán địa phương, tăng 24,9% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa thực hiện 4.650,1 tỷ đồng, bằng 94,4% dự toán địa phương, bằng 111,3% dự toán trung ương, tăng 13,8% so với cùng kỳ (Nếu trừ thu tiền sử dụng đất thì ước thu hết tháng 10 đạt 2.041,4 tỷ đồng, đạt 85,8% dự toán trung ương và đạt 84,1% dự toán tỉnh, bằng 91,6% so với cùng kỳ); thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 640,2 tỷ đồng, đạt 128,0% dự toán địa phương, tăng 425,6% so với cùng kỳ.

          So với dự toán năm: Có 11/15 khoản thu đạt tiến độ (83,3%) dự toán cả năm, là thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; thu từ khu vực ngoài quốc doanh; thuế thu nhập cá nhân; thuế bảo vệ môi trường, thu lệ phí trước bạ, thu phí & lệ phí, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thu tiền thuê đất, thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết, thu hoa lợi công sản. Còn lại 4 khoản chưa đạt tiến độ của dự toán năm.

          So với cùng kỳ năm trước: Có 8/15 khoản có tăng trưởng so với cùng kỳ, đó là thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước trung ương; thu từ khu vực ngoài quốc doanh; thuế thu nhập cá nhân; thuế bảo vệ môi trường; thu lệ phí trước bạ; thu phí & lệ phí; thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết. Còn lại 7 khoản thu giảm so với cùng kỳ.

          b) Tín dụng

          - Hoạt động huy động vốn

          Đến 30/9/2021, tổng nguồn vốn huy động đạt 51.437 tỷ đồng, tăng 6,6% so với đầu năm. Ước tính đến 31/10/2021, tổng nguồn vốn huy động đạt 51.348 tỷ đồng, tăng 6,4% so với đầu năm, giảm 0,2% so với tháng 9/2021.

          - Hoạt động tín dụng

         Đến 30/9/2021, tổng dư nợ đạt 65.599 tỷ đồng, tăng 9,7% so với đầu năm. Ước tính đến 31/10/2021, dư nợ đạt 65.800 tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm, tăng 0,3% so với tháng 9/2021.

          - Dư nợ các chương trình tín dụng

          Cho vay theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 866 tỷ đồng. Nợ xấu cho vay theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: 740 tỷ đồng, chiếm 85,4% dư nợ cho vay theo chương trình, tăng 3% so với đầu năm; nợ gốc quá hạn 14,9 tỷ đồng, chiếm 1,72% dư nợ cho vay theo chương trình; nợ lãi quá hạn 24,1 tỷ đồng.

          Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn: 158.406 khách hàng, dư nợ 31.420 tỷ đồng, chiếm 47,9% tổng dư nợ, tăng 7,7% so với đầu năm, tăng 11,8% so với cùng kỳ.

          Cho vay phục vụ Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới: 111.331 khách hàng, dư nợ 14.850 tỷ đồng, chiếm 22,6% tổng dư nợ, giảm 7,4% so với đầu năm, giảm 3% so với cùng kỳ.

          Cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách: Ngân hàng Chính sách xã hội đang triển khai 22 chương trình cho vay, dư nợ cho vay 3.652 tỷ đồng, tăng 5,1% so với đầu năm, tăng 6,5% so với cùng kỳ.

          II. XÃ HỘI

          1. Giáo dục, đào tạo

          a) Giáo dục

          Triển khai kế hoạch năm học 2021 - 2022 trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biết hết sức phức tạp, gây khó khăn cho các đơn vị trong thực hiện các hoạt động. Trước tình hình đó, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu UBND tỉnh lùi thời gian tổ chức dạy học năm học 2021 - 2022 để tập trung phòng chống dịch COVID-19, đồng thời tạo tâm thế sẵn sàng cho phụ huynh, học sinh được học tập trực tuyến khi các em không được đến trường. Tỉnh Quảng Bình không tổ chức khai giảng năm học mới 2021 - 2022, tập trung chuẩn bị các điều kiện để bắt đầu dạy học trực tuyến từ ngày 20/9/2021.

          Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các trường chuẩn bị cơ sở vật chất, phương án phân luồng, giãn cách học sinh để phòng dịch khi học sinh đến trường, bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Tiếp nhận, tạo điều kiện cho học sinh học tập tại nơi lưu trú do dịch COVID-19, khảo sát, rà soát điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị (phần mềm, máy tính, điện thoại thông minh, tivi,…) trong đội ngũ giáo viên và học sinh để tổ chức dạy học trực tuyến, dạy học qua truyền hình. Những nơi khó khăn, giáo viên chuẩn bị các phương án phối hợp với phụ huynh dạy học cho học sinh, chỉ đạo các trường tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, tập huấn cho đội ngũ giáo viên để dạy học trực tuyến. Đến nay, có 99,8% giáo viên phổ thông, giáo dục thường xuyên đủ điều kiện để dạy học trực tuyến (TH: 99,7%, THCS: 100%, THPT: 99,6%); có 72,5% học sinh phổ thông, giáo dục thường xuyên có đủ điều kiện học trực tuyến (TH: 68,3%; THCS: 67,4%; THPT: 92,4%); có 50,6% học sinh phổ thông, thường xuyên có tivi kết nối kỹ thuật số, cáp quang có thể xem truyền hình quốc gia VTV7 (TH: 48,6%; THCS: 37%; THPT: 78,4%).

          Sở Giáo dục và Đào tạo đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn hoạt động đầu năm học, hướng dẫn phòng chống dịch COVID-19 trong các cơ sở giáo dục; tổ chức hội nghị để bàn giải pháp dạy học trong giai đoạn bị ảnh hưởng của dịch bệnh. Chỉ đạo cung ứng cơ bản đầy đủ sách giáo khoa cho học sinh; riêng sách giáo khoa lớp 1, 2, 6 cung cấp khoảng 95% do giãn cách xã hội; 5% còn lại sẽ cung ứng đầy đủ cho học sinh. Sở Giáo dục và Đào tạo đã bám sát các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, căn cứ tình hình thực tế để chủ động tham mưu UBND tỉnh ban hành khung kế hoạch thời gian năm học 2021 - 2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trong toàn tỉnh. Văn bản cho phép các cơ sở giáo dục được phép hoạt động, các trường được tổ chức tựu trường.

          Năm học 2021 - 2022, quy mô trường, lớp của các bậc học tiếp tục được rà soát, sắp xếp hợp lý, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng nhu cầu người học. Đầu năm học có 223 cơ sở giáo dục mầm non với 2.340 lớp, 58.364 trẻ; 401 cơ sở giáo dục phổ thông và thường xuyên với 4.971 lớp, 180.157 học sinh, học viên.

          Theo kế hoạch năm học, các cơ sở giáo dục đã chủ động xây dựng, thực hiện kế hoạch tập trung đội ngũ để triển khai một số hoạt động đầu năm theo hình thức trực tiếp kết hợp với trực tuyến phù hợp với diễn biến của dịch bệnh; tổ chức phân chia lớp học theo kế hoạch phát triển trường lớp và biên chế viên chức được giao; xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; quán triệt chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, các quy định của ngành; động viên giáo viên vượt qua khó khăn, thử thách để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học.

          b) Đào tạo

          Trong năm học mới 2021 - 2022, chỉ tiêu tuyển sinh của Trường Đại học Quảng Bình là 1.165 chỉ tiêu đại học, cao đẳng hệ chính quy; trong đó, hệ đại học 1.115 chỉ tiêu, cao đẳng sư phạm 50 chỉ tiêu. Trường Đại học Quảng Bình đã thông báo tuyển sinh và xét tuyển theo 3 phương thức gồm: Xét tuyển dựa vào kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021; xét tuyển dựa vào kết quả học tập lớp 12 THPT; xét tuyển dựa vào kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 hoặc dựa vào kết quả học tập lớp 12 THPT kết hợp với thi tuyển năng khiếu theo tổ hợp xét tuyển tương ứng (áp dụng đối với ngành giáo dục thể chất và giáo dục mầm non). Theo báo cáo của Trường Đại học Quảng Bình, số thí sinh trúng tuyển và đã nhập học năm học 2021 - 2022 tính đến ngày 10/10/2021 là 221 sinh viên; trong đó hệ Đại học là 205 sinh viên; hệ Cao đẳng giáo dục Mầm non là 16 sinh viên. Hiện tại Trường Đại học Quảng Bình đang tiếp tục công tác tuyển sinh các đợt bổ sung theo kế hoạch tuyển sinh của Trường.

          2. Công tác y tế

          a) Công tác phòng chống các bệnh dịch lây

          Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, trong tháng 9/2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 27 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 368 trường hợp cúm; 6 trường hợp lỵ amip; 4 trường hợp thủy đậu; 163 trường hợp tiêu chảy; 3 trường hợp viêm gan virut khác; 2 trường hợp quai bị.

          Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 30/9/2021 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 152 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 1.694 trường hợp tiêu chảy; 60 trường hợp viêm gan vi rút khác; 378 trường hợp thủy đậu; 22 trường hợp quai bị; 3.852 trường hợp cúm; 24 trường hợp lỵ trực trùng; 2 trường hợp sốt rét; 14 trường hợp lỵ amip; 12 trường hợp tay - chân - miệng; 2 trường hợp viêm gan virut B; 3 trường hợp bệnh do virut Adeno; 4 trường hợp lao phổi; 2 trường hợp sởi. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra.

          Hiện nay, tình hình dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành quyết định điều chỉnh các mức độ phòng, chống dịch COVID-19 trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, thị xã Ba Đồn, huyện Bố Trạch. Ngày 11/10/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 128/NQ-CP ban hành Quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”, trong đó quy định chuyển hướng chiến lược phòng, chống dịch sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”, ngành Y tế đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh.

          Theo báo cáo của Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, tính đến thời điểm 6h00 ngày 25/10/2021, toàn tỉnh có 352.927 người được tiêm vắc xin COVID-19, trong đó 60.362 người đã tiêm đủ 2 mũi; tổng số người hiện đang cách ly tập trung là 2.379 người; tổng số người hiện đang theo dõi, cách ly tại nhà là 1.659 người; tổng số ca dương tính là 1.940 ca (trong đó 1.823 ca đã khỏi bệnh và 111 ca đang nhiễm, 6 ca tử vong).

          b) Chương trình phòng chống sốt rét

          Trong tháng 9/2021: Tổng số lượt người điều trị sốt rét là 19 lượt người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 2.672 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,0%.

          Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 9/2021, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 461 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 2 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 29.319 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,01%.

          c) Tình hình nhiễm HIV/AIDS

          Từ đầu năm đến ngày 30/9/2021, trên địa bàn tỉnh phát hiện 19 người nhiễm mới HIV, 16 người chuyển sang AIDS, 6 người tử vong do AIDS. Tính đến ngày 30/09/2021, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.505 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 538 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 154 người. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện các hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, khám, điều trị bệnh nhân HIV/AIDS, hướng dẫn các hành vi an toàn dự phòng lây nhiễm HIV nhằm hạn chế sự lây nhiễm HIV trong nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng.

          d) Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm

          Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Tính đến cuối tháng 9 năm 2021, toàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ ngộ độc thực phẩm với 13 ca mắc, trong đó: 1 vụ ở xã Hóa Sơn (huyện Minh Hóa) với 03 ca mắc; 1 vụ ở xã Quảng Hợp (huyện Quảng Trạch) với 2 ca mắc; 1 vụ ở xã Phúc Trạch (huyện Bố Trạch) với 5 ca mắc và 1 vụ ở xã Hóa Thanh (huyện Minh Hóa) với 03 ca mắc, các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời nên không có tử vong, ngoài ra còn có 130 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

          3. Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao

          Hoạt động văn hóa trong tháng 10/2021 chủ yếu tập trung các hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên các hoạt động tập trung đông người như lễ hội, các cuộc trưng bày, triển lãm, các chương trình nghệ thuật, các giải thi đấu thể thao đều bị hoãn, lùi thời gian tổ chức.

         Nhằm xây dựng mô hình thư viện phục vụ cộng đồng đáp ứng công tác phòng, chống dịch COVID-19, vừa qua, Sở Văn hóa và Thể thao đã đề nghị thực hiện việc đổi mới hình thức, phát huy sự sáng tạo, linh hoạt trong tổ chức phục vụ sách, báo tại cơ sở thông qua phát triển các mô hình tủ sách phục vụ cộng đồng, thư viện lưu động đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu, giải trí của người dân đặc biệt là các đối tượng thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, các bệnh nhân và lực lượng tuyến đầu chống dịch tại các khu phong tỏa, khu cách ly, khu điều trị và những điểm nóng vùng dịch bệnh. Việc đổi mới hoạt động cung ứng sản phẩm và dịch vụ thư viện theo hướng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, thông qua không gian mạng phục vụ người sử dụng. Việc tổ chức các hoạt động thư viện bảo đảm các nguyên tắc phòng, chống dịch bệnh, trên tinh thần chủ động, linh hoạt sáng tạo, đảm bảo nhu cầu tiếp cận thông tin, tri thức và hỗ trợ việc học tập của người dân.

          Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với phong trào “Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới” được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các xã/phường thực hiện nếp sống văn minh đô thị trong việc cưới, việc tang đồng thời đảm bảo các quy định phòng, chống dịch COVID-19.

          Lũy kế từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao giành được 32 huy chương các loại (6 huy chương vàng, 11 huy chương bạc và 15 huy chương đồng).

          4. An toàn giao thông, cháy nổ

          - An toàn giao thông

         Theo báo cáo của Công an tỉnh, tháng 9/2021 toàn tỉnh không xảy ra tai nạn giao thông nghiêm trọng; so với tháng 9 năm 2020, số vụ tai nạn giao thông giảm 11 vụ, số người chết do tai nạn giao thông giảm 6 người, số người bị thương do tai nạn giao thông giảm 6 người.

          Lũy kế 9 tháng năm 2021, toàn tỉnh đã xảy ra 90 vụ tai nạn giao thông, giảm 5 vụ so với cùng kỳ năm 2020, trong đó đường bộ 90 vụ, giảm 3 vụ so với cùng kỳ; đường sắt không xảy ra, giảm 2 vụ so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 64 người, tăng 2 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 64 người, tăng 3 người so với cùng kỳ; đường sắt không xảy ra, giảm 1 người so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 69 người, giảm 26 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 69 người, giảm 25 người so với cùng kỳ; đường sắt không xảy ra, giảm 1 người so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2020.

          - Tình hình cháy nổ

          Theo báo cáo của Công an tỉnh, lũy kế 9 tháng năm 2021, toàn tỉnh đã xảy ra 13 vụ cháy với giá trị thiệt hại 3.909,5 triệu đồng, trong đó cháy nhà đơn lẻ 3 vụ với giá trị thiệt hại 566,5 triệu đồng, cháy phương tiện giao thông vận tải 4 vụ với giá trị thiệt hại 2.180 triệu đồng, cháy loại hình khác 4 vụ với giá trị thiệt hại 1.163 triệu đồng,... So với cùng kỳ năm trước, số vụ cháy nổ giảm 21 vụ, giá trị thiệt hại giảm 3.208,5 triệu đồng.

          5. Thiệt hại thiên tai

          Những ngày đầu tháng 10, do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, bão số 7 và số 8 đã gây mưa lớn ở hầu hết các địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, lượng mưa đo được phổ biến hơn 100mm, có nơi như: Đồng Tâm: 318mm; Tân Mỹ 376mm; Mai Hóa 351mm; Minh Hóa 324mm; Phong Nha 425,2mm; Tân Lâm (Ngư Hóa) 319mm; Ba Đồn 269mm; Hương Hóa 226,5mm; Quảng Hợp 268,2mm; Trường Sơn 565mm. Mực nước trên các sông: Sông Gianh tại trạm Mai Hóa 3,28m trên báo động I 0,28m; Đồng Hới 1,11m trên báo động I 0,11m; Lệ Thủy 3,05m trên báo động III 0,35m.

          Mưa lũ lớn trên diện rộng đã gây thiệt hại khá lớn. Mặc dù cấp ủy, chính quyền các cấp đã có sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt, nhưng với cường độ mưa lớn trong thời gian dài nên đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Theo số liệu thống kê, tính đến ngày 18/10/2021 toàn tỉnh đã có:

          - Thiệt hại về người: 01 người chết tại xã Hồng Thủy, huyện Lệ Thủy ngày 27/9 do bị sét đánh; 01 người chết tại xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn; 01 người chết tại xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh và 01 người mất tích ở xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh, hiện chính quyền và người nhà đang tìm kiếm.

          - Thiệt hại về nhà ở: Huyện Lệ Thủy có 5 nhà bị hư hỏng; 4 nhà bị tốc mái (tại xã Lâm Thủy), trong đó 2 nhà bị tốc mái nặng, 1 nhà bị sập hoàn toàn (Kim Thủy). Ước tính giá trị thiệt hại 150 triệu đồng.

          Tình hình ngập lụt: Tổng số thôn bản bị chia cắt 25 thôn, bản (Minh Hóa 9, Quảng Ninh 13, Lệ Thủy 2, Bố Trạch 1). Các hộ bị ngập: Toàn tỉnh có 25 xã/1449 hộ bị ngập (huyện Lệ Thủy có 16 xã/1076 hộ, huyện Quảng Ninh có 5 xã/99 hộ, huyện Bố Trạch có 4 xã/274 hộ).

          - Thiệt hại về thủy lợi: Mương cấp 1 khu vực Bắc Sơn đập Khe Hà bị sạt lở 2 điểm, mỗi điểm dài 3m, rộng 2m (sụt lún đất); mương cấp 1 đập Hà Lau bị đất đá vùi lấp 5m3; mương cấp 1 đập Khe Nung bị vùi lấp đất, đá 25m3; bờ sông rào bội phía sau trụ sở UBND xã Hương Hóa tiếp tục sạt lở (chiều dài 60m, rộng 4m, cao 1m); tuyến kè biển Nhật Lệ bị sóng đánh vỡ 300m; tuyến kè biển Nhân Trạch bị sập 50m.

          - Thiệt hại về giao thông: Tuyến đường liên xã đi Thanh Thạch, huyện Tuyên Hóa bị sạt lở 4 đoạn, với khối lượng đất bị sụt lún hư hỏng đường khoảng 50m3, đoạn dài nhất trên 37m và các đoạn khác khoảng trên 20m; tuyến đường Hồ Chí Minh nhánh Tây tại Km90 (Đồn Biên phòng Làng Mô) có 01 điểm sạt lở dài khoảng 20m.

          6. Một số vấn đề xã hội khác

          Hiện nay, tình hình dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cơ bản được kiểm soát, các ổ dịch cũ tại thành phố Đồng Hới, thị xã Ba Đồn và huyện Bố Trạch không ghi nhận ca mắc mới, số ca mắc mới giảm và chủ yếu là người từ vùng dịch về. Ngày 07/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 1314/CĐ-TTg gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực Trung ương; các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ về việc phối hợp đưa đón người dân có nhu cầu cần thiết, chính đáng được về quê an toàn, chu đáo. UBND tỉnh đã thành lập Tổ công tác đón công dân Quảng Bình đang lưu trú tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam do ảnh hưởng của dịch COVID-19 trở về quê. Theo đó, trong 2 ngày 09 - 10/10/2021, 4 chuyến tàu hỏa xuất phát từ ga Sài Gòn đã đưa gần 2.400 công dân Quảng Bình yếu thế (người già, phụ nữ mang thai, trẻ em,...) lưu trú tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam về đến Quảng Bình an toàn, đảm bảo công tác phòng chống dịch bệnh. Trong hành trình, đã có 02 sản phụ sinh con an toàn.

          Để phù hợp với tình hình mới, UBND tỉnh đã ban hành các Quyết định v chuyển trạng thái mới với các mức độ phòng, chống dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; ban hành kế hoạch xét nghiệm SARS-CoV-2 để giám sát chủ động COVID-19 trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.

          Triển khai thực hiện Nghị quyết số 116/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.

          Tình hình đời sống của Nhân dân trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, các cơ sở sản xuất kinh doanh đẩy mạnh sản xuất kinh doanh với tinh thần vừa phát triển kinh tế vừa phòng chống dịch bệnh. Bên cạnh đó, các hoạt động chăm lo đời sống người dân, an sinh xã hội được lãnh đạo các cấp hết sức quan tâm, nhờ vậy, cuộc sống của người dân tương đối ổn định, công tác an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo luôn nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành. Tính đến nay, thiếu đói trong dân cư ở Quảng Bình không xảy ra./.

[Trở về]