THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2021 tỉnh Quảng Bình 

          I. KINH TẾ

          1. Nông nghiệp

          a. Trồng trọt

          Triển khai sản xuất vụ Hè Thu trong điều kiện thời tiết nắng nóng gay gắt kéo dài; một số nơi thiếu nước nên tiến độ gieo trồng một số loại cây hàng năm gặp khó khăn. Tuy nhiên, nhờ có dự báo và chuẩn bị trước tình hình nên các cấp, các ngành đã chủ động triển khai tốt các giải pháp thủy lợi phục vụ sản xuất nên nguồn nước cơ bản đáp ứng phục vụ cho gieo trồng cây hàng năm vụ Hè Thu, đặc biệt là cây lúa, diện tích gieo trồng tăng so với cùng kỳ năm trước.

          Diện tích gieo trồng:

          Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Hè Thu thực hiện 36.510,6 ha, tăng 2,0% so với vụ Hè Thu năm trước. Cụ thể các cây trồng như sau:

          Cây lúa: Diện tích thực hiện 23.543,8 ha, tăng 1,8% so với vụ Hè Thu năm trước. Diện tích lúa Hè Thu gieo cấy tăng nhờ hệ thống thủy lợi tưới tiêu nước hiệu quả, đảm bảo đủ nguồn nước phục vụ cho nhu cầu gieo cấy.

          Hầu hết diện tích lúa Hè Thu của các địa phương tăng so với năm trước. Cụ thể: Thành phố Đồng Hới 890,9 ha, tăng 0,1%; thị xã Ba Đồn 2.516,0 ha, giảm 2,9%; huyện Minh Hóa 1.574,4 ha, tăng 21,2%, huyện Tuyên Hóa 2.813,6 ha, tăng 3,3%; huyện Quảng Trạch 4.665,8 ha, tăng 0,3%; huyện Bố Trạch 7.750,3 ha, tăng 0,5%; huyện Quảng Ninh 4.688,8 ha, tăng 6,2%; huyện Lệ Thủy 11.610,8 ha, tăng 0,9% so với vụ Hè Thu năm trước.

          Hiện tại, lúa Hè Thu trà đầu giai đoạn chín sáp và một số nơi đã thu hoạch; trà chính vụ, trà muộn trong giai đoạn trổ, chín sữa. Lúa tái sinh đã thu hoạch xong, dự kiến năng suất cao hơn năm trước.

          Các loại cây trồng khác: Diện tích cây ngô 631,5 ha, tăng 21,9%; cây khoai lang 448,7 ha, giảm 13,3%; cây sắn 6.579,6 ha, tăng 5%; cây lạc 530,7 ha, giảm 1,8%; cây rau, đậu các loại 2.709,8 ha, giảm 3,4% so với vụ Hè Thu năm trước.

          Năng suất cây trồng:

          Tuy thời tiết nắng nóng gay gắt kéo dài, nhưng nhờ hệ thống kênh mương tưới tiêu cơ bản được tu sửa, nạo vét hoàn chỉnh nên công tác tưới nước cho cây trồng thực hiện thuận lợi. Vì vậy, từ đầu vụ đến nay chưa có diện tích cây lúa bị hạn gay gắt và mất trắng hoàn toàn. Công tác bảo vệ thực vật được quan tâm, triển khai đồng bộ nên sâu bệnh hại cây trồng ảnh hưởng không lớn, chỉ phát tán cục bộ và khống chế kịp thời. Theo đó, năng suất nhiều loại cây trồng vụ Hè Thu năm nay cho năng suất cao hơn năm trước, một số cây giảm không đáng kể.

          Năng suất cây lúa: Năng suất lúa bình quân chung toàn tỉnh ước tính đạt 40,80 tạ/ha, tăng 4,8% so với vụ Hè Thu năm trước. Năng suất lúa các địa phương: Thành phố Đồng Hới đạt 55,41 tạ/ha, thị xã Ba Đồn đạt 55,60 tạ/ha, huyện Minh Hóa đạt 44,60 tạ/ha, huyện Tuyên Hóa đạt 47 tạ/ha, huyện Quảng Trạch đạt 55 tạ/ha, huyện Bố Trạch đạt 43 tạ/ha, huyện Quảng Ninh đạt 48,14 tạ/ha, huyện Lệ Thủy đạt 26,54 tạ/ha.

          Năng suất một số cây trồng khác: Cây ngô ước tính đạt 37,53 t/ha, tăng 2,4%; cây khoai lang đạt 58,13 t/ha, tăng 2,3%; cây sắn đạt 182,05 tạ/ha, tăng 3,0%; cây lc đạt 17,58 t/ha, tăng 7,1%; cây vừng đạt 6,12 t/ha, giảm 6,8%; cây rau các loi đạt 92,11 t/ha, tăng 7,0%; cây đậu các loi đạt 8,08 t/ha, tăng 16,3% so với vụ Hè Thu năm trước.

          Sản lượng cây trồng:

          Ước tính sản lượng lúa đạt 96.055,7 tấn, tăng 6,8%; sản lượng ngô đạt 2.370,5 tấn, tăng 24,8% (do diện tích ngô vụ Hè Thu năm trước mất trắng nhiều); sản lượng khoai lang 2.608,4 tấn, giảm 11,3%; sản lượng sắn đạt 119.782,4 tấn, tăng 8,1%; sản lượng lạc đạt 933 tấn, tăng 5,2%; sản lượng vừng đạt 181,4 tấn, tăng 6,9%; sản lượng rau các loại đạt 16.457,4 tấn, giảm 11,2%; sản lượng đậu các loại đạt 745,6 tấn, tăng 15,0% so với vụ Hè Thu năm trước.

          Thời tiết khá thuận lợi nên sâu, bệnh gây hại cây trồng đã xuất hiện nhiều nơi. Chuột phá hoại lúa xuất hiện ở Lệ Thủy, Ba Đồn, Quảng Trạch, Quảng Ninh, Bố Trạch, Đồng Hới, Tuyên Hóa; bệnh tuyến trùng lúa xuất hiện ở Lệ Thủy, Quảng Ninh, Ba Đồn, Minh Hóa, Đồng Hới; bệnh khô vằn lúa xuất hiện ở Quảng Ninh, Lệ Thủy, Tuyên Hóa, Ba Đồn, Quảng Trạch, Bố Trạch, Minh Hóa; bệnh lúa von: Diện tích nhiễm 65 ha, tập trung chủ yếu ở thị xã Ba Đồn, tỷ lệ bệnh phổ biến 3 - 5%, nơi cao 20 - 25%, gây hại trên giống DV108, cá biệt như xã Quảng Trung, thị xã Ba Đồn, tỷ lệ lúa von dao động từ 1-3%, có diện tích lên đến trên 15% gây tâm lý lo lắng cho người dân; bệnh bạc lá lúa xuất hiện ở Quảng Ninh, Quảng Trạch. Trên cây ngô xuất hiện sâu keo, sâu cắn lá. Theo dự báo của cơ quan chức năng, thời gian tới chuột, bệnh khô vằn, rầy lưng trắng, bệnh lúa von tiếp tục gây hại trên cây lúa.

          b. Chăn nuôi

          Sản xuất chăn nuôi tháng 8 tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi từ những tháng đầu năm và dịch viêm da nổi cục trên trâu, bò nên việc tái đàn gặp khó khăn.

          Ước tính sản lượng sản phẩm xuất chuồng tháng 8: Thịt trâu hơi 109 tấn, tăng 2,8%; thịt bò hơi 710 tấn, tăng 8,4%; thịt lợn hơi 2.144 tấn, tăng 2,7% ; thịt gia cầm 1.690 tấn, tăng 3,3%, trong đó: Thịt gà 1.190 tấn, tăng 6,3%; sản lượng trứng gia cầm 10.150 ngàn quả, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.

          Sản lượng sản phẩm xuất chuồng 8 tháng: Thịt trâu hơi 1.376 tấn, giảm 4%; thịt bò hơi 6.098 tấn, tăng 12,8%; thịt lợn hơi 26.190 tấn, giảm 3,1%; thịt gia cầm 15.839 tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thịt gà 12.010 tấn, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước.

          Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm:

          Lũy kế từ ngày 01/01/2021 đến ngày 17/8/2021, dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra ở 231 hộ/76 thôn/37 xã/8 huyện, thị, thành phố làm 1.896 con lợn chết, tiêu hủy với tổng trọng lượng là 109.675 kg. Trong đó có 33 xã đã qua 21 ngày, còn 4 xã/3 huyện chưa qua 21 ngày (xã Lê Hóa, xã Cao Quảng huyện Tuyên Hóa; xã Phù Hóa huyện Quảng Trạch; xã Xuân Thủy huyện Lệ Thủy).

          Lũy kế từ ngày 08/2/2021 đến ngày 17/8/2021, dịch bệnh Viêm da nổi cục trên trâu, bò đã xảy ra tại 6.257 hộ/684 thôn/125 xã/8 huyện, thị xã, thành phố làm 8.735 con trâu, bò mắc bệnh và 1.334 con trâu, bò chết do bệnh. Hiện nay, có 57 xã, phường/7 huyện, thị thị xã, thành phố đã công bố hết dịch bệnh viêm da nổi cục.

          Để phòng ngừa dịch bệnh những tháng cuối năm, các sở, ban, ngành liên quan tiếp tục chỉ đạo triển khai công tác vệ sinh tiêu độc khử trùng, tổ chức tiêm các loại vắc xin cho đàn gia súc, gia cầm; tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp kiểm soát phòng, chống bệnh Cúm gia cầm A/H5N8 và các chủng vi rút cúm gia cầm thể độc lực cao khác xâm nhiễm vào địa bàn tỉnh. Chi cục Chăn nuôi và Thú y thường xuyên cập nhật tình hình dịch bệnh Cúm gia cầm trong vùng Bắc Trung Bộ để kịp thời báo cáo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo Chốt kiểm dịch động vật tạm thời phía Bắc tăng cường giám sát phương tiện vận chuyển gia cầm, sản phẩm gia cầm đi qua, đặc biệt là vào địa bàn tỉnh. Chính quyền địa phương các cấp đẩy mạnh tổ chức thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn người dân chủ động giám sát gia cầm có biểu hiện bị bệnh, nghi bị bệnh, kịp thời phát hiện, báo cáo chính quyền, cơ quan thú y và triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh.

          2. Lâm nghiệp

          Tháng 8/2021, các chủ rừng tiếp tục khai thác gỗ từ rừng trồng; chăm sóc rừng trồng, trồng cây phân tán và triển khai công tác phòng, chống cháy rừng.

          Ước tính sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tháng 8 đạt 69.500 m3; 8 tháng đạt 332.349 m3, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác tháng 8 đạt 48.200 ste; 8 tháng đạt 237.950 ste, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước.

          Công tác bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm, triển khai kịp thời công tác tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân vùng có rừng; tổ chức tập huấn công tác phòng, chống cháy rừng cho các chủ rừng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát phá rừng trái phép.

          3. Thủy sản

          Do dịch Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp, thị trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu gặp khó khăn, giá nhiên liệu ở mức cao nên ảnh hưởng lớn đến sản xuất thuỷ sản. Những tháng gần đây sản lượng thuỷ sản tăng thấp.

          Ước tính tháng 8 sản lượng thuỷ sản đạt 11.647,5 tấn, so với cùng kỳ năm trước tăng 2,2%. Tính chung 8 tháng sản lượng thuỷ sản đạt 63.767 tấn, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,2%. Trong đó: Cá các loại 50.992 tấn, tăng 5,3%; tôm các loại 6.080 tấn, tăng 6,0%; thủy sản khác 6.695 tấn, tăng 3,0%.

          a. Khai thác

          Hiện nay, thời tiết thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy sản biển, tuy nhiên thị trường tiêu thụ khó khăn, giá nhiều sản phẩm thuỷ sản giảm mạnh, ngư dân giảm ra khơi khai thác nên sản lượng khai thác tháng 8 và 8 tháng tăng thấp so với cùng kỳ năm trước.

          Ước tính tháng 8 sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 8.976 tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 8.495 tấn tăng 2,6%; khai thác nội địa 481 tấn, tăng 2,1%.

          Ước tính 8 tháng sản lượng khai thác đạt 54.747 tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 52.026 tấn tăng 5,4%; khai thác nội địa 2.721 tấn, tăng 2,6%. Sản lượng khai thác chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 46.983 tấn, tăng 5,6%; tôm các loại 1.104 tấn, tăng 3,9%; thủy sản khác 6.660 tấn, tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước.

          b. Nuôi trồng

          Ước tính tháng 8 sản lượng nuôi trồng thu hoạch đạt 2.671,5 tấn, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá các loại 1.530 tấn, tăng 1,0%; tôm các loại 1.130 tấn, tăng 1,4%; thủy sản khác 11,5 tấn, tăng 5,5%.

          Ước tính 8 tháng sản lượng thu hoạch đạt 9.020 tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá các loại 4.009 tấn, tăng 2,2%; tôm các loại 4.976 tấn, tăng 6,5%; thủy sản khác 35 tấn, tăng 7,7%. Trong tháng 8, một số địa phương tập trung đẩy nhanh công tác thu hoạch sản phẩm nhằm hạn chế thiệt hại do mưa bão gây ra.

          Nét nổi bật trong nuôi trồng thủy sản đó là: Nuôi trồng thủy sản tăng về mặt diện tích; nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi cá trong ruộng lúa phát triển khá, nuôi cá lồng, bè phát triển ổn định, cơ sở ươm nuôi tôm giống được đầu tư và tăng quy mô nên đã cung cấp một phần giống tôm thẻ chân trắng cho người nuôi.

          4. Công nghiệp

          Trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã ghi nhận một số ca dương tính trong cộng đồng, tuy nhiên nhờ thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch nên đến nay tình hình dịch được kiểm soát, các cơ sở sản xuất công nghiệp trong tỉnh tiếp tục sản xuất ổn định và có mức tăng khá so với cùng kỳ. Một số dự án mới đầu tư hoàn thành và đi vào hoạt động đang phát huy hiệu quả như: chế biến chả cá, kính cường lực, sản xuất gỗ ván ép, chế biến dầu lạc, điện mặt trời,… và có đóng góp vào mức tăng chung của ngành công nghiệp trong tháng 8 năm 2021.

          Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 8 ước tính tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,1%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 28,0%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước.

          Tính chung 8 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 5,7%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 14,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong thời gian qua, nắng nóng kéo dài, do đó, ngoài nguồn điện phục vụ sản xuất thì nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt của khách hàng cũng tăng cao. Bên cạnh đó, dự án điện mặt trời mới hoàn thành và đi vào hoạt động nên chỉ số ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

          Chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2021 của một số ngành cấp 2 tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 14,4%; ngành sản xuất trang phục tăng 11,3%; ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 9,3%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 6,4%; ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 6,3%; ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 5,9%; ngành khai khoáng khác tăng 5,8%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 5,6%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp và giảm so với cùng kỳ năm trước: Ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 1,8%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,1%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 0,9%; ngành sản xuất đồ uống giảm 8,3%. Do tình hình của dịch Covid-19 trong nước cũng như trên thế giới vẫn còn diễn biến phức tạp nên một số sản phẩm công nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

          Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước: Cá đông lạnh đạt 1.452 tấn, tăng 121,6%; ván ép từ gỗ đạt 56.523 m3, tăng 59,2%; sản phẩm tinh bột sắn đạt 5.160 tấn, tăng 36,3% (sản xuất tinh bột sắn từ tháng 5 đã dừng sản xuất do hết mùa sắn nguyên liệu); gạch xây dựng bằng đất nung đạt 263,3 triệu viên, tăng 29,6%; thủy điện đạt 17,8 triệu kwh, tăng 14,1%; đá xây dựng đạt 2,4 triệu m3, tăng 7,2%; xi măng đạt 1,2 triệu tấn, tăng 5,0%; phân khoáng, phân NPK đạt 25,6 nghìn tấn, tăng 4,6%; thức ăn cho thủy sản đạt 1.733 tấn, tăng 4,2%; clinker thành phẩm đạt 2,4 triệu tấn, tăng 3,2%; áo sơ mi đạt 8,5 triệu cái, giảm 0,9%; cao lanh đạt 38,8 nghìn tấn, giảm 7,9%; dăm gỗ đạt 212,7 nghìn tấn, giảm 8,9%; cao su tổng hợp đạt 304 tấn, giảm 9,3%; nước khoáng có ga đạt 6,3 triệu lít, giảm 15,3%.

          Để thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển, trong thời gian tới cần sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành, tạo điều kiện hỗ trợ, khắc phục khó khăn; đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp, nhất là các dự án trọng điểm của tỉnh. Tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp để nâng cao năng lực sản xuất. Đặc biệt là một số dự án vẫn đang được triển khai như: Điện gió B&T, Dự án Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch,… góp phần thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.

          5. Vốn đầu tư

          UBND tỉnh đã tổ chức Hội nghị bàn các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công và có các văn bản chỉ đạo, đôn đốc các sở, ngành, đơn vị, địa phương đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2021. Quán triệt nhiệm vụ giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ rất quan trọng của các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị góp phần tăng trưởng kinh tế trong điều kiện dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Tranh thủ tháng 8 thời tiết khá thuận lợi, các đơn vị đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Bên cạnh đó, kế hoạch vốn đầu tư công năm 2021 đã được giao chi tiết cho các chủ đầu tư, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, công trình, đặc biệt là các công trình giao thông giúp phát huy tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

          Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 8 ước tính đạt 416,6 tỷ đồng, tăng 16,3% so với tháng trước và giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 307,9 tỷ đồng, giảm 13,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 67,4 tỷ đồng, tăng 42,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 41,3 tỷ đồng, tăng 35,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 8 giảm so với cùng kỳ năm trước do các dự án ODA thực hiện còn chậm, công tác chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong nước và của nhà tài trợ nên các dự án mới mất rất nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án.

          Tính chung 8 tháng năm 2021, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 2.284,9 tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 1.659,1 tỷ đồng, tăng 4,0%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 378,1 tỷ đồng, tăng 29,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 247,7 tỷ đồng, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước.

          Thực hiện các công trình/dự án từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh trong 8 tháng năm 2021 được triển khai theo đúng tiến độ, việc quản lý vốn được thực hiện nghiêm túc, công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư đảm bảo đúng quy định. Tuy nhiên, vẫn còn một số công trình/dự án tiến độ thi công đạt thấp do công tác đền bù, giải phóng mặt bằng hoàn thành chậm.

          6. Thương mại, dịch vụ

          a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

          Diễn biến dịch Covid-19 ngày càng phức tạp, ngày 21/7/2021 tỉnh Quảng Bình ghi nhận ca dương tính với SARS-COV-2 đầu tiên, Chính quyền các cấp khẩn trương ban hành các văn bản thực hiện phòng, chống dịch áp dụng các Chỉ thị 15/CT-TTg ngày 27/3/2020, Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020, Chỉ thị 19/CT-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Các địa phương thực hiện nghiêm túc các biện pháp giãn cách xã hội, do đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 8 giảm so với tháng trước.

          Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 8 ước tính đạt 3.492,1 tỷ đồng, giảm 4,4% so với tháng trước và tăng 11,8% so với cùng kỳ.

          Tính chung 8 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 28.467,5 tỷ đồng, tăng 14,2% so với cùng kỳ (loại trừ yếu tố giá tăng 12,5%), trong đó tăng cao nhất là nhóm xăng dầu các loại tăng 31,5%, nguyên nhân do giá xăng dầu tăng cao (+22,22%) so với cùng kỳ. Cụ thể các nhóm hàng: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 12,7%; nhóm hàng may mặc tăng 8,5%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 12,8%; nhóm vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 13,1; nhóm gỗ và vật liệu xây tăng 14,2%; nhóm ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 12,6%; nhóm phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 16,0%; nhóm xăng, dầu các loại tăng 31,5%; nhóm nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 12,0%; nhóm đá quý, kim loại quý tăng 13,0%; nhóm hàng hoá khác tăng 13,5%; nhóm dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 16,9% so với cùng kỳ.

          b. Lưu trú, ăn uống và du lịch

          Hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch chịu sự tác động lớn kể từ khi dịch Covid-19 đợt thứ 4 xuất hiện. Theo đó, các ngành lưu trú, ăn uống và du lịch tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề. Nhiều cơ sở lưu trú vắng khách, nhà hàng, quán ăn giảm công suất hoạt động hoặc phải đóng cửa.

          Dịch vụ lưu trú:

          Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 8 ước tính đạt 4,1 tỷ đồng, giảm 51,2% so với tháng trước và giảm 71,6% so với cùng kỳ; tính chung 8 tháng năm 2021 đạt 85,0 tỷ đồng, giảm 36,6% so với cùng kỳ.

          Số lượt khách lưu trú tháng 8 ước tính đạt 11.900 lượt khách, giảm 53,0% so với tháng trước và giảm 74,7% so với cùng kỳ; 8 tháng đạt 242.400 lượt khách, giảm 44,4% so với cùng kỳ. Trong đó: số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 8 ước tính đạt 200 lượt khách, giảm 30,8% so với tháng trước và giảm 68,5% so với cùng kỳ; 8 tháng đạt 5.671 lượt khách, giảm 83,1% so với cùng kỳ.

          Ngày khách tháng 8 ước tính đạt 12.550 ngày khách, giảm 53,0% so với tháng trước và giảm 79,8% so với cùng kỳ; 8 tháng đạt 270.995 ngày khách, giảm 48,9% so với cùng kỳ.

          Dịch vụ ăn uống:

          Tháng 8 doanh thu dịch vụ ăn uống ước tính đạt 275 tỷ đồng, giảm 20,3% so với tháng trước và tăng 9,1% so với cùng kỳ; 8 tháng đạt 2.303,1 tỷ đồng, tăng 5,3% so với cùng kỳ.

          Dịch vụ lữ hành

          Doanh thu hoạt động lữ hành tháng 8 ước tính đạt 0,4 tỷ đồng, giảm 91,8% so với tháng trước, giảm 95,3% so với cùng kỳ; 8 tháng đạt 63,7 tỷ đồng, giảm 44,7% so với cùng kỳ.

          Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 8 ước tính đạt 591 lượt khách, giảm 41,0% so với tháng trước, giảm 97,6% so với cùng kỳ; 8 tháng đạt 100.565 lượt khách, giảm 71,5% so với cùng kỳ.

          Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 8 ước tính đạt 12 lượt khách, giảm 63,6% so với tháng trước, giảm 98,0% so với cùng kỳ; 8 tháng đạt 3.843 lượt khách, giảm 88,4% so với cùng kỳ.

          c. Dịch vụ khác

          Từ ngày 05/8/2021, tỉnh Quảng Bình thực hiện giãn cách xã hội phòng chống, dịch Covid-19 tại một số địa phương theo nguyên tắc một số nguyên tắc một số Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, theo đó tạm dừng hoạt động các cơ sở kinh doanh dịch vụ không thiết yếu có nguy cơ lây lan cao như: rạp chiếu phim, sân vận động, sân chơi thể thao, võ thuật, thể dục thẩm mỹ, karaoke, massage, quán bar, vũ trường,… Vì vậy doanh thu dịch vụ khác giảm so với tháng trước, mặc dù có một số nhóm dịch vụ tăng khá như: nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản do trong tháng Doanh nghiệp Trường Hà mở đấu các khu đất phân lô bán nền, nhóm dịch vụ y tế và dịch vụ hỗ trợ do thăm khám và hỗ trợ bệnh nhân trong mùa dịch tăng.

          Ước tính doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng 8 đạt 138,2 tỷ đồng, giảm 4,0% so với tháng trước và tăng 6,7% so với cùng kỳ. Tính chung 8 tháng doanh thu dịch vụ khác đạt 1.090,5 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ. Trong đó nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 14,9%; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 7,7%; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 42,4%; nhóm dịch vụ y tế và hoạt động hoạt động trợ giúp xã hội tăng 16,4%.

          d. Hoạt động vận tải

          Tháng 8/2021, hoạt động vận tải tiếp tục gặp khó khăn do dịch Covid- 19 ngày càng diễn biễn phức tạp. Kết quả kinh doanh vận tải tháng 8/2021 giảm sút so với tháng trước. Vận tải hành khách là một trong những ngành chịu tác động mạnh, một số đơn vị vận tải hành khách phải tạm ngừng hoạt động, chỉ hoạt động 30 - 40% lượng phương tiện hiện có. Bên cạnh đó, hoạt động vận tải hàng hóa phục vụ cho sản xuất kinh doanh đảm bảo nhu cầu lưu thông hàng hóa, đặc biệt là vận chuyển vật liệu xây dựng đáp ứng nhu cầu cung cấp nguyên vật liệu cho các công trình đang bước vào thời kỳ đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành trước mùa mưa bão.

          Tổng doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 8 ước tính đạt 352,6 tỷ đồng, giảm 2,6% so với tháng trước và tăng 4,6% so với cùng kỳ. Tính chung 8 tháng đạt 2.768,4 tỷ đồng, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu vận tải đạt 2.552,8 tỷ đồng, tăng 7,7%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 215,5 tỷ đồng, giảm 11,6% so với cùng kỳ năm trước.

          Vận chuyển hành khách: Tổng số hành khách vận chuyển tháng 8 đạt 2,1 triệu hành khách, giảm 7,5% so với tháng trước và giảm 18,9% so với cùng kỳ. Tính chung 8 tháng đạt 17,9 triệu hành khách, tăng 1,2% so với cùng kỳ. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 8 đạt 92,3 triệu hành khách.km, giảm 6,9% so với tháng trước và giảm 13,7% so với cùng kỳ; 8 tháng năm 2021 đạt 815,6 triệu hành khách.km, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước.

          Vận chuyển hàng hóa: Tổng khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 8 ước tính đạt 2,4 triệu tấn, giảm 1,7% so với tháng trước và giảm 2,2% so với cùng kỳ; 8 tháng đạt 18,2 triệu tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ. Tổng khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 8 ước tính đạt 133,6 triệu tấn.km, giảm 0,9% so với tháng trước và tăng 10,5% so với cùng kỳ; tính chung 8 tháng đạt 968,6 triệu tấn.km, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước.

          Trong bối cảnh chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, kết quả hoạt động vận tải đạt được như vậy là một cố gắng vượt bậc của các đơn vị vận tải trong việc khắc phục khó khăn, duy trì hoạt động, mặc dù kết quả đó vẫn còn thấp so với các năm trước. Trong thời gian tới, diễn biễn tình hình dịch Covid-19 vẫn rất phức tạp, khó lường, do đó sẽ còn ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả hoạt động vận tải, nhất là vận tải hành khách.

          e. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ

          * Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

          Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 năm 2021 tỉnh Quảng Bình tăng 0,09% so với tháng trước; tăng 2,22% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,70% so với kỳ gốc 2019. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng 1,38% (trong đó: nhóm hàng hóa tăng 1,49%; nhóm dịch vụ tăng 1,14%).

          Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 3 nhóm tăng, 1 nhóm giảm và 7 nhóm không đổi so với tháng trước, cụ thể: nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,76%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,04%; nhóm giao thông tăng 0,35%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,21%. Các nhóm: nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm giáo dục; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch; nhóm hàng hoá và dịch vụ khác có chỉ số không đổi so với tháng trước.

          Nguyên nhân làm CPI tháng 8 năm 2021 tăng: Giá xăng dầu điều chỉnh tăng liên tiếp vào ngày 27/7/2021 và ngày 11/8/2021 góp phần làm cho chỉ số giá nhóm giao thông tăng 0,35% so với tháng trước; thời tiết trong tháng 8/2021 tương đối khắc nghiệt, nắng nóng kéo dài nên nhiều loại rau ăn lá phát triển chậm, khô héo, sâu bệnh nên giá một số loại rau tươi tăng so với tháng trước; giá gạo tăng 0,20% do tình hình dịch bệnh phức tạp, nguồn cung từ các tỉnh phía Nam gặp khó khăn; từ ngày 01/8/2021 giá gas được điều chỉnh tăng 12.000 đồng/bình 12kg, tăng 3% so với tháng trước; thời tiết nắng nóng nên người dân sử dụng các thiết bị làm mát cũng như nước sinh hoạt tăng làm giá điện tăng 1,84% và giá nước tăng 6,77% so với tháng trước.

          * Chỉ số giá vàng 99,99%

          Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước. Tháng 8/2021 giá vàng dao động quanh mức 5,13 triệu đồng/chỉ, giảm 0,37% so với tháng trước, giảm 3,58% so với cùng kỳ năm trước và giảm 4,68% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 8 tháng chỉ số giá vàng tăng 12,80% so với cùng kỳ.

          * Chỉ số giá đô la Mỹ (USD)

          Đô la Mỹ tháng này có giá bình quân 22.810 đồng/USD, giảm 0,44% so với tháng trước, giảm 1,21% so với cùng kỳ năm trước và giảm 1,00% so với tháng 12 năm trước. Bình quân 8 tháng chỉ số đô la Mỹ giảm 1,07% so với cùng kỳ.

          7. Tài chính, tín dụng

          a. Thu ngân sách nhà nước

          Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước tính tháng 8 năm 2021 thực hiện 271,0 tỷ đồng; 8 tháng thực hiện 4.425,4 tỷ đồng, đạt 81,5% so với dự toán địa phương, tăng 31,8% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa thực hiện 3.886,6 tỷ đồng, bằng 78,9% dự toán địa phương, tăng 19,5% so với cùng kỳ; thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 538,8 tỷ đồng, vượt 7,8% dự toán địa phương, tăng 406,4% so với cùng kỳ năm trước.

          Trong tổng số thu cân đối ngân sách 8 tháng năm 2021 so với dự toán năm có 10/15 khoản thu đạt tiến độ (66,7%) dự toán cả năm, đó là: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; thu từ khu vực ngoài quốc doanh; thuế thu nhập cá nhân; thuế bảo vệ môi trường; thu lệ phí trước bạ; thu phí và lệ phí; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thu tiền sử dụng đất; thu xổ số kiến thiết và thu hoa lợi cộng sản; còn lại không đạt tiến độ.

          So với cùng kỳ có 9/15 khoản có tăng trưởng so với cùng kỳ, đó là: thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước trung ương; thu từ khu vực ngoài quốc doanh; thuế thu nhập cá nhân; thuế bảo vệ môi trường; thu lệ phí trước bạ; thu phí và lệ phí; thu tiền sử dụng đất; thu xổ số kiến thiết và thu khác ngân sách; còn lại đều giảm so với cùng kỳ năm trước.

          b. Tín dụng

          Huy động vốn: Đến 31/7/2021, tổng nguồn vốn huy động đạt 49.789 tỷ đồng, tăng 3,2% so với đầu năm. Ước tính đến 31/8/2021, tổng nguồn vốn huy động đạt 49.500 tỷ đồng, tăng 2,6% so với đầu năm, giảm 0,6% so với tháng 7/2021.

          Hoạt động tín dụng: Đến 31/7/2021, tổng dư nợ đạt 65.177 tỷ đồng, tăng 9,0% so với đầu năm. Ước tính đến 31/8/2021, dư nợ đạt 65.404 tỷ đồng, tăng 9,3% so với đầu năm, tăng 0,3% so với tháng 7/2021.

          Tình hình dư nợ các chương trình tín dụng:

          Cho vay theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 867,7 tỷ đồng; nợ xấu cho vay theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP là 738 tỷ đồng, chiếm 85,1% dư nợ cho vay theo chương trình, tăng 3% so với đầu năm, tăng 56% so với cùng kỳ.

          Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn: 159.741 khách hàng, dư nợ 32.709 tỷ đồng, chiếm 50,2% tổng dư nợ, tăng 12,2% so với đầu năm, tăng 17,9% so với cùng kỳ.

          Cho vay phục vụ Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới: 116.424 khách hàng, dư nợ 17.306 tỷ đồng, chiếm 26,5% tổng dư nợ, tăng 8% so với đầu năm, tăng 24,1% so với cùng kỳ.

          Cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách: Ngân hàng Chính sách xã hội đang triển khai 22 chương trình cho vay, dư nợ cho vay 3.630 tỷ đồng, tăng 4,5% so với đầu năm, tăng 6,5% so với cùng kỳ.

          II. XÃ HỘI

          1. Giáo dục, đào tạo

          a. Giáo dục

          Ngày 13/8/2021, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình đã ký Quyết định số 2596/QĐ-UBND về ban hành khung kế hoạch thời gian năm học 2021 - 2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trong toàn tỉnh, theo đó các Trường bám sát khung kế hoạch để triển khai thực hiện đúng thời gian quy định.

          Sở Giáo dục và Đào tạo đã hoàn thành công tác chấm thi năm 2021; tổ chức phúc khảo bài thi và gửi kết quả xét công nhận tốt nghiệp THPT sơ bộ về Bộ Giáo dục và Đào tạo để công bố kết quả xét công nhận tốt nghiệp THPT; xây dựng kế hoạch tổ chức tập huấn chuyên môn cho các cấp học, tập huấn đại trà, tập huấn sử dụng tài liệu giáo dục địa phương lớp 2, lớp 6 cho cán bộ quản lý và giáo viên thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018; tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cấp phòng cho cán bộ quản lý các đơn vị trực thuộc. Sở Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định thành lập Ban biên soạn Tài liệu giáo dục địa phương lớp 3, lớp 7 và lớp 10 trong Chương trình giáo dục phổ thông mới.

          Để chuẩn bị tốt các điều kiện cho năm học mới, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức rà soát đánh giá thực trạng cơ sở vật chất và thiết bị dạy học hiện có của các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; chỉ đạo các địa phương xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo với mục tiêu ưu tiên các hạng mục, công trình phòng học, thư viện, công trình nước sạch cho các vùng khó khăn, mua sắm bổ sung các thiết bị dạy học còn thiếu đáp ứng kịp thời cơ sở vật chất cho năm học mới. Thực hiện công tác tập huấn, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới, bồi dưỡng đối với đội ngũ giáo viên dạy lớp 1; bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tư vấn, hướng nghiệp trong các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc phân công, phân cấp, nâng cao trách nhiệm thực thi nhiệm vụ, chất lượng giải trình và chất lượng công tác phối hợp trong xử lý công việc. Tăng cường giao quyền chủ động cho các địa phương trong công tác quản lý giáo dục đối với các cơ sở giáo dục và giáo viên về xây dựng, thực hiện kế hoạch giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và khả năng học tập của học sinh.

          Công tác phòng, chống dịch Covid-19 cũng được tập trung đẩy mạnh, trong đó chú trọng thực hiện tổng vệ sinh trường, lớp học; rà soát, bổ sung thiết bị đo thân nhiệt, khẩu trang, dung dịch sát khuẩn, bố trí các điểm rửa tay, phòng cách ly y tế tạm thời trong trường học, xây dựng các phương án bảo đảm sức khỏe cho học sinh, cán bộ, giáo viên nhà trường. Sở Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn Phòng Giáo dục và Đào tạo các huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị trực thuộc về công tác chuẩn bị cho ngày khai giảng năm học 2021 - 2022, theo kế hoạch sẽ được tổ chức vào ngày 05/9/2021.

          b. Đào tạo

          Năm học mới 2021 - 2022, chỉ tiêu tuyển sinh Trường Đại học Quảng Bình là 1.165 chỉ tiêu hệ đại học, cao đẳng hệ chính quy; trong đó, hệ đại học 1.115 chỉ tiêu, cao đẳng sư phạm 50 chỉ tiêu. Hiện tại, Trường Đại học Quảng Bình tiếp tục thông báo tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm học 2021 - 2022, thời gian nhận hồ sơ đến hết ngày 30/11/2021.

          2. Y tế

          a. Công tác phòng chống các bệnh dịch lây

          Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, trong tháng 7/2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 45 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 379 trường hợp cúm; 2 trường hợp lỵ trực trùng; 11 trường hợp thủy đậu; 156 trường hợp tiêu chảy; 12 trường hợp viêm gan virut khác; 4 trường hợp quai bị. Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 31/7/2021, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 94 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 1.404 trường hợp tiêu chảy; 53 trường hợp viêm gan vi rút khác; 371 trường hợp thủy đậu; 19 trường hợp quai bị; 3.182 trường hợp cúm; 23 trường hợp lỵ trực trùng; 2 trường hợp sốt rét; 7 trường hợp lỵ amip; 12 trường hợp tay - chân - miệng; 1 trường hợp viêm gan virut B; 4 trường hợp lao phổi; 2 trường hợp sởi. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra.

          Các chốt kiểm soát phòng, chống dịch Covid-19 hoạt động hiệu quả. Nhằm tăng cường kiểm soát người đi vào địa bàn tỉnh, ngày 28/7/2021 UBND tỉnh đã có Quyết định số 2378/QĐ-UBND về việc thành lập Chốt kiểm soát phòng, chống dịch Covid-19 số 2 trên tuyến Quốc lộ 1A tại xã Sen Thủy huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình và ngày 02/8/2021 UBND tỉnh có Quyết định số 2433/QĐ-UBND về việc thành lập 02 Chốt kiểm soát phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên tuyến Quốc lộ 12A tại Khu vực Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo, xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa, cụ thể: 01 Chốt bố trí tại Km40 đường 12A, 01 Chốt bố trí ở khu vực mốc quốc giới 528.

          Nhằm thực hiện Công điện số 1068/CĐ-TTg ngày 05/8/2021 của Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 và Công văn số 1070/TTg-KGVX ngày 05/8/2021 của Chính phủ về việc tập trung chỉ đạo điều hành công tác phòng, chống dịch Covid-19 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10/8/2021 UBND tỉnh có Công văn số 1513/UBND-NCVX yêu cầu các sở, ban, ngành, địa phương trong tỉnh thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nêu tại Công điện số 1068/CĐ-TTg ngày 05/8/2021 và tại Công văn số 1070/TTg-KGVX ngày 05/8/2021, tăng cường và giám sát chặt chẽ việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh và tiếp tục tập trung chỉ đạo, thực hiện quyết liệt hơn, hiệu quả hơn.

          Đối với việc điều trị bệnh nhân Covid-19: Ngày 11/8/2021 UBND tỉnh đã có Quyết định số 2549/QĐ-UBND về việc trưng dụng và thiết lập Cơ sở điều trị Covid-19 cấp 1 tại Trường Cao đẳng Luật Miền Trung, trong đó giao Trung tâm Mắt - Nội tiết tỉnh Quảng Bình tiếp nhận một phần Bệnh viện Dã chiến tỉnh Quảng Bình và thực hiện nhiệm vụ khám bệnh, chữa bệnh Covid-19 tại cơ sở. Trong ngày 11/8/2021, UBND tỉnh cũng đã có Quyết định số 2550/QĐ-UBND về việc thiết lập khu vực điều trị bệnh nhân Covid-19 tại Bệnh viện Y Dược cổ truyền tỉnh Quảng Bình trên cơ sở tiếp nhận một phần Bệnh viện Dã chiến tỉnh và giao cho Bệnh viện Y Dược cổ truyền tỉnh thực hiện nhiệm vụ khám, chữa bệnh Covid-19 theo quy định đồng thời chấm dứt hoạt động Bệnh viện Dã chiến tỉnh Quảng Bình.

          Đối với công tác cách ly y tế trong phòng, chống dịch Covid-19: Ngày 17/8/2021, UBND tỉnh đã có Công văn số 1572/UBND-NCVX thay thế các văn bản hướng dẫn trước đây về cách ly y tế đối với người về từ vùng có dịch của UBND tỉnh và Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh qua đó yêu cầu các sở, ban, ngành, các địa phương trong tỉnh thực hiện nghiêm các quy định về cách ly y tế.

          Công tác tiêm phòng vắc xin Covid-19 tiếp tục triển khai. Tính đến thời điểm 11h00 ngày 25/8/2021, toàn tỉnh có 73.537 người được tiêm vắc xin Covid-19, trong đó 20.283 người đã tiêm đủ 2 mũi. Theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh, tính đến thời điểm 11h00 ngày 25/08/2021 tổng số người hiện đang cách ly tập trung là 2.117 người. Tổng số người đang cách ly tại nhà, nơi cư trú là 819 người. Tổng số mẫu xét nghiệm dương tính đến thời điểm 11h00 ngày 25/8/2021 là 138 mẫu.

          b. Chương trình phòng chống sốt rét

          Tổng số lượt người điều trị sốt rét tháng 7/2021 là 44 lượt người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 3.433 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,0%. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 7/2021, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 416 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 2 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 24.034 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,01%.

          c. Tình hình nhiễm HIV/AIDS

          Từ đầu năm đến ngày 31/7/2021 trên địa bàn tỉnh phát hiện 15 người nhiễm mới HIV, 12 người chuyển sang AIDS, 6 người tử vong do AIDS. Tính đến ngày 31/7/2021, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.501 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 534 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 154 người. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động về thông tin - giáo dục - truyền thông, can thiệp giảm tác hại và chương trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Duy trì các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục, chương trình an toàn truyền máu trong các dịch vụ y tế.

          d. Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm

          Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Tính đến cuối tháng 7 năm 2021, toàn tỉnh đã xảy ra 03 vụ ngộ độc thực phẩm với 10 ca mắc, trong đó: 1 vụ ở xã Hóa Sơn (huyện Minh Hóa) với 03 ca mắc; 1 vụ ở xã Quảng Hợp (huyện Quảng Trạch) với 2 ca mắc và 1 vụ ở xã Phúc Trạch (huyện Bố Trạch) với 5 ca mắc, các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời nên không có tử vong, ngoài ra còn có 111 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

          3. Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao

          Trọng tâm văn hóa, thông tin tháng 8 là tiếp tục tổ chức các hoạt động tuyên truyền bề nổi thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh và các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước trong đó kỷ niệm 74 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2021) và thực hiện đợt cao điểm tuyên truyền Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2021) đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền về phòng, chống dịch Covid-19.

          Các hoạt động kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2021) diễn ra sôi nổi trong đó nổi bật: Cuộc thi tìm hiểu về Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chủ đề "Võ Nguyên Giáp - Đại tướng của Nhân dân" được tổ chức với 02 hình thức trắc nghiệm tương tác trực tuyến và thi viết dành cho đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên và các tầng lớp Nhân dân trong, ngoài nước; Bảo tàng Tổng hợp tỉnh, Sở Văn hóa và Thể thao Quảng Bình tổ chức triển lãm ảnh với chủ đề “Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Cuộc đời và sự nghiệp” trưng bày 110 bức ảnh, tư liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và trên 400 đầu sách viết về cuộc đời và hoạt động cách mạng của Đại tướng; Hội thảo khoa học cấp quốc gia về Đại tướng; các hoạt động dâng hương, dâng hoa tại Khu lưu niệm, Khu mộ Đại tướng cùng với chương trình nghệ thuật ca ngợi cuộc đời hoạt động cách mạng, công lao, cống hiến to lớn của Đại tướng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Các hoạt động kỷ niệm nhằm tôn vinh và tri ân những công lao, đóng góp to lớn của Đại tướng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; ghi nhớ những tình cảm thiêng liêng, sự quan tâm sâu sắc của Đại tướng đối với Nhân dân cả nước nói chung và Đảng bộ, Nhân dân tỉnh Quảng Bình nói riêng; đồng thời thể hiện lòng biết ơn vô hạn của Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình đối với công lao to lớn của Đại tướng.

          Trong tháng 8/2021, Sở Văn hóa và Thể thao hoàn thành việc biên tập, in kỷ yếu và các nội dung liên quan tổng kết 20 năm thực hiện Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2000 - 2020; theo dõi, hướng dẫn cơ sở xây dựng các tiêu chí về văn hóa trong bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới; tăng cường công tác quản lý lễ hội, di tích, các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, thể thao trên địa bàn đảm bảo quy định của pháp luật và phù hợp với điều kiện phòng, chống dịch Covid-19.

          Lũy kế từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao giành được 32 huy chương các loại (6 huy chương vàng, 11 huy chương bạc và 15 huy chương đồng).

          4. An toàn giao thông, cháy nổ

          a. An toàn giao thông

          Theo báo cáo của Công an tỉnh, tháng 7 năm 2021 toàn tỉnh đã xảy ra 5 vụ tai nạn giao thông, giảm 9 vụ so cùng kỳ năm 2020, trong đó đường bộ 5 vụ, giảm 9 vụ; đường sắt, đường thủy không xảy ra bằng cùng kỳ năm 2020. Số người chết do tai nạn giao thông 5 người, giảm 2 người so với cùng kỳ năm 2020, trong đó đường bộ chết 5 người, giảm 2 người; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 4 người, giảm 8 người so với tháng 7 năm 2020, trong đó đường bộ bị thương 4 người, giảm 8 người; đường sắt, đường thủy không có người bị thương, bằng cùng kỳ năm trước.

          Lũy kế 7 tháng đầu năm 2021, toàn tỉnh đã xảy ra 89 vụ tai nạn giao thông, tăng 14 vụ so với cùng kỳ năm 2020, trong đó đường bộ 89 vụ, tăng 15 vụ so cùng kỳ; đường sắt không xảy ra, giảm 1 vụ so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 64 người, tăng 27 người so cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 64 người, tăng 27 người so với cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 67 người, tăng 4 người so với cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 67 người, tăng 5 người so với cùng kỳ; đường sắt không xảy ra, giảm 1 người so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2020.

          b. Tình hình cháy nổ

          Lũy kế từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ cháy với giá trị thiệt hại 3.788,5 triệu đồng. Trong đó cháy nhà đơn lẻ 3 vụ với giá trị thiệt hại 566,5 triệu đồng, cháy phương tiện giao thông vận tải 4 vụ với giá trị thiệt hại 2.180 triệu đồng, cháy loại hình khác 3 vụ với giá trị thiệt hại 1.042 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ cháy nổ giảm 11 vụ, giá trị thiệt hại giảm 529,5 triệu đồng./.

[Trở về]