THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 tỉnh Quảng Bình 

          Triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình năm 2014 diễn ra trong điều kiện có nhiều thuận lợi. Sản xuất nông nghiệp được mùa lớn, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm mạnh đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn mở rộng sản xuất, du lịch phát triển, số lượng khách đến tăng cao đột biến. Tuy vậy, môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, tình hình biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp... đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển sản xuất và đời sống dân cư. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp tỉnh Quảng Bình đã thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ, triển khai quyết liệt, đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm các giải pháp thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2014. Với sự nỗ lực vượt qua khó khăn, phát huy tính chủ động, sáng tạo của toàn quân và toàn dân, trong đó có cộng đồng doanh nghiệp đã góp phần giữ ổn định và phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế cao, bảo đảm an sinh xã hội. Dự ước kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu trong năm 2014 như sau:

1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) 6,8% (KH tăng 7,5%); trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,9%, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 9%, khu vực dịch vụ tăng 7,5%; 

2. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,5%, đạt KH đề ra  (KH tăng 3%);

3. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,0%, đạt KH đề ra (KH tăng 10%);

4. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 7,4%;

5. Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 23,6% (KH 20,5%); khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 22,6% (KH 36,8%); khu vực dịch vụ chiếm 53,8% (KH 42,7%);

6. Sản lượng lương thực 29,9 vạn tấn, tăng 9,2% so với năm 2013, vượt KH 8,7% (KH 27,5 vạn tấn);

7. Kim ngạch xuất khẩu 150,1 triệu USD, tăng 8,5% so với năm 2013 và đạt 100,1% so kế hoạch (KH 150 triệu USD);

8. Giảm tỷ lệ hộ nghèo 5,5% (KH 3,5-4%). Tỷ lệ hộ nghèo còn 8,7% theo chuẩn mới;

9. Giải quyết việc làm 3,3 vạn lao động (KH 3,2 vạn lao động);

10. Phổ cập THCS đạt 99,4% xã, phường, thị trấn (KH 99,4%);

11. Giảm tỷ suất sinh 0,19‰ so với năm 2013 (KH 0,25‰);

12. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm so năm trước 0,8% (KH 1,5%);

13. GRDP bình quân đầu người 24,8 triệu đồng (KH 25 triệu đồng).

I. KINH TẾ

Ước tính sơ bộ, tổng sản phẩm trên địa bàn toàn tỉnh (GRDP) năm 2014 tăng 6,8% so với năm 2013. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,0%, đóng góp 2,0 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,5%, đóng góp 4,1 điểm phần trăm.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2013 và năm 2014 (%)

 

 

 

Tốc độ tăng so với

năm trước

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng
năm 2014

 

Năm 2013

Năm 2014

Tổng số

6,6

6,8

6,8

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

3,6

2,9

0,7

Công nghiệp và xây dựng

12,4

9,0

2,0

Dịch vụ

5,6

7,5

4,1

Cơ cấu khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 23,6%, giảm 1,5%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 22,6%, tăng 0,4%; khu vực dịch vụ chiếm 53,8%, giảm 1,1% so với năm 2013.

Tăng trưởng kinh tế năm 2014 đạt kế hoạch đề ra do cả 3 khu vực kinh tế đều có tốc độ phát triển khá. Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, cây lúa được mùa lớn cả 2 vụ Đông Xuân và Hè Thu; đàn gia súc, gia cầm cơ bản đã khống chế được dịch bệnh nên phát triển ổn định; đánh bắt thủy sản xa bờ có hiệu quả nên sản lượng thủy sản tăng cao. Khu vực công nghiệp - xây dựng nhờ lãi suất ngân hàng tiếp tục giảm đáng kể, các chính sách của Nhà nước về hỗ trợ kinh tế đã và đang phát huy tác dụng đã góp phần đẩy nhanh tăng trưởng của khu vực này. Khu vực dịch vụ tăng trưởng ổn định, việc có thêm nhiều sản phẩm du lịch mới, với lượt khách đến tăng đột biến đã góp phần thúc đẩy ngành bán lẻ, khách sạn, nhà hàng du lịch và dịch vụ phát triển.

Cụ thể từng ngành, từng lĩnh vực như sau:

1. Nông nghiệp

Dự ước giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản (giá so sánh năm 2010) năm 2014 đạt 7.043,7 tỷ đồng, tăng 3,5% so với năm 2013. Trong đó: Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 4.597,8 tỷ đồng, tăng 4%; giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 507,5 tỷ đồng, bằng 86,6%; giá trị sản xuất thuỷ sản đạt 1.938,4 tỷ đồng, tăng 7,8% so với năm 2013.

a. Trồng trọt

Năm 2014, sản xuất nông nghiệp được mùa toàn diện. Diện tích, năng suất và sản lượng nhiều cây trồng tăng so với năm trước. Đặc biệt là năng suất cây lúa cao nhất từ trước đến nay. Sản lượng lương thực tăng cao so với năm trước, vượt kế hoạch đề ra, an ninh lương thực được tăng cường.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm 85.652 ha, tăng 0,4% so năm trước. Diện tích chia theo nhóm cây: Cây lúa 54.231,4 ha, tăng 1,2%; cây ngô và cây lương thực có hạt khác 4.552,7 ha, bằng 99,1%; cây lấy củ có chất bột 10.346,5 ha, tăng 0,3%; cây mía 70,8 ha, tăng 30,2%; cây thuốc lá, thuốc lào 6 ha; cây lấy sợi 10 ha, tương đương năm trước; cây có hạt chứa dầu 5.678,0 ha, bằng 96,8%; cây rau, đậu, hoa, cây cảnh 8.011,0 ha, bằng 97,3%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 776,8 ha, tăng 38,7%; cây hàng năm khác 1.968,6 ha, bằng 95,6%. Diện tích một số cây chủ yếu: Cây lúa 54.231,4 ha, tăng 1,2%; cây ngô 4.462,7 ha, bằng 99,2%; cây khoai lang 3.732,0 ha, bằng 96%; cây sắn 5.843 ha, tăng 4,2%; cây mía 71 ha, tăng 30,5%; cây rau các loại 5.546,3 ha, bằng 99,4%; cây đậu các loại 2.368,2 ha, bằng 92,2%; cây lạc 5.255,3 ha, bằng 97,2% so năm trước.

Thời gian sinh trưởng và phát triển của cây trồng gặp nhiều thuận lợi nên năng suất, sản lượng nhiều loại cây trồng tăng so năm trước. Cụ thể năng suất một số cây trồng chủ yếu: Lúa đạt 51,2 tạ, tăng 8,9%; ngô đạt 47,96 tạ, bằng 99,1%; khoai lang đạt 73,6 tạ, tăng 1,1%; sắn đạt 185,3 tạ, tăng 5,1%; rau các loại đạt 95,2 tạ, tăng 0,02%; đậu các loại đạt 8,8 tạ, tăng 9,5%; lạc đạt 18,4 tạ, bằng 89,5%; vừng đạt 6,1 tạ, tăng 10,1% so năm trước.

Dự ước sản lượng lương thực cả năm 2014 thực hiện 299.137,9 tấn, so năm trước tăng 9,2%. Chia ra: Thóc 277.471,4 tấn, tăng 10,1%; lương thực khác 21.666,5 tấn, bằng 98,3% so năm trước.

Nét nổi bật trong sản xuất cây hàng năm đó là: Diện tích sản xuất cây lương thực được giữ ổn định, an ninh về lương thực được tăng cường; cơ cấu giống được chuyển dịch tích cực theo hướng cho năng suất cao và phù hợp thời tiết; diện tích cây trồng được chuyển đổi, đặc biệt cây lúa kém hiệu quả được thay thế cây trồng mới trên 1.000; tăng cường xây dựng cánh đồng mẫu lớn với diện tích 1.126 ha; một số vùng trồng rau an toàn được hình thành gần 10 ha; công tác phòng trừ dịch bệnh cây trồng được quan tâm nên thiệt hại trong sản xuất được giảm bớt. Công tác thủy lợi hoạt động có hiệu quả, diện tích bị hạn hán không đáng kể.

Cây lâu năm ở các địa phương đang tiếp tục đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Theo đó, diện tích một số cây ăn quả như dừa, dâu tằm, táo… đang giảm dần thay vào một số loại cây cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn như cao su, hồ tiêu, cam, chanh, ổi… Nhìn chung, cây lâu năm của các địa phương chủ yếu được trồng theo mô hình xen canh, phân tán nhằm tận dụng tối đa diện tích đất thổ cư trong các hộ gia đình. Riêng cây cao su đã có bước phát triển khá về quy mô trồng tập trung, chất lượng vườn cây ngày càng tốt hơn.

Tổng diện tích gieo trồng các loại cây lâu năm toàn tỉnh thực hiện 21.309,1 ha, tăng 15,0% so cùng kỳ. Cụ thể: Cây ăn quả 3.245,5 ha, tăng 2,3%; cây lấy quả chứa dầu 31,9 ha, bằng 93,0%; cây hồ tiêu 791,5 ha, tăng 1,4%; cây cao su 16.285,1 ha, tăng 19,7%;    cây chè 440,9 ha, tăng 3,9%; cây gia vị, cây dược liệu 113,7 ha, tăng 7,8%; cây lâu năm khác 400,5 ha, bằng 98,3% so cùng kỳ. Cơ cấu diện tích cây lâu năm đã có sự chuyển dịch theo hướng mở rộng phát triển một số cây có thị trường tiêu thụ ổn định, hiệu quả kinh tế cao.  

Nhờ quá trình chăm sóc cây lâu năm được thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, bên cạnh đó thời tiết có nhiều thuận lợi nên năng suất các loại cây lâu năm tăng khá so cùng kỳ. Năng suất một số cây trồng chủ yếu như sau: Cao su 9,2 tạ, tăng 1,2%; hồ tiêu 8,0 tạ, bằng 91,3%; cam 41,3 tạ, bằng 98,9%; nhãn 34,9 tạ, tăng 7,2%; vải 33,9 tạ, bằng 94,6%; chuối 77,9 tạ, bằng 95,7%; xoài 39,9 tạ, tăng 0,3%. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bão năm trước nên diện tích cho sản phẩm giảm. Theo đó sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu giảm so năm trước. Cụ thể: Cao su 4.549,6 tấn, bằng 73,2%; hồ tiêu 496,4 tấn, bằng 93,7%; cam 776,8 tấn, bằng 94,6%; quýt 288,9 tấn, bằng 97,7%; nhãn 234,5 tấn, tăng 0,5%; vải 278,3 tấn, bằng 92,6%; chuối 8.412,7 tấn, bằng 95,1%; xoài 498,3 tấn, bằng 98,7% so cùng kỳ

b. Chăn nuôi

Ngành chăn nuôi trong năm 2014 tiếp tục phát triển. Đàn trâu, đàn bò có xu hướng giảm xuất chuồng nên tổng đàn hiện có tăng lên, đặc biệt là đàn trâu. Chăn nuôi lợn, gia cầm theo mô hình trang trại và gia trại phát triển khá, theo đó hệ số xuất chuồng tăng nhanh. Một số doanh nghiệp đã triển khai chăn nuôi lợn nái sinh sản để cung cấp giống trên địa bàn. Một số mô hình chăn nuôi mới được áp dụng như nuôi gà ri thả vườn, nuôi lợn mán. Chất lượng đàn gia súc gia cầm được cải thiện, tỷ lệ bò lai, lợn ngoại tiếp tục tăng.

Công tác phòng trừ dịch bệnh được quan tâm nên từ đầu năm đến nay chỉ xẩy ra dịch H5N1 trên phạm vi hẹp và được khống chế, dập dịch kịp thời, các dịch khác xẩy ra rãi rác, ảnh hưởng không đáng kể. Vì vậy, đàn gia súc, gia cầm cơ bản phát triển ổn định và trọng lượng xuất chuồng đạt khá.

 Dự ước đàn gia súc gia cầm tại thời điểm 01/10/2014:

- Đàn trâu: 34.930 con, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước;

- Đàn bò: 89.224 con, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước;

- Đàn lợn: 358.626 con, tăng 1% so với cùng kỳ năm trước;

- Đàn gia cầm: 2.681,4 ngàn con, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước.

Dự ước sản lượng sản phẩm chăn nuôi cả năm 2014: Thịt trâu 1.413,7 tấn, bằng 99,7%; thịt bò 5.825 tấn, bằng 97,4%; thịt lợn 46.162,9 tấn, tăng 5,8%; thịt gà 5.514 tấn; thịt vịt 1.983,1 tấn.

2. Lâm nghiệp

Dự ước năm 2014 diện tích rừng trồng tập trung thực hiện 6.750 ha, tăng 54,1%; diện tích được khoanh nuôi tái sinh 2.200 ha, bằng 32,6%; diện tích rừng trồng được chăm sóc 15.494 ha, bằng 98,4%; số cây trồng phân tán 4.210 ngàn cây, tăng 0,7%; diện tích được giao khoán bảo vệ 111.698 ha, tăng 52,6% so năm 2013.

Dự ước sản lượng gỗ khai thác cả năm 2014 thực hiện 220.000 m3, bằng 86,8% so năm trước; sản lượng củi khai thác 216.380 ste, so năm trước bằng 71,3%. Nguyên nhân sản lượng gỗ, củi đạt thấp là do đã khai thác hết diện tích rừng trồng bị hư hại do bão năm trước ảnh hưởng. Các sản phẩm thu nhặt có sản lượng không ổn định, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết như măng các loại, nấm các loại, mộc nhĩ, mật ong rừng….

Công tác phòng chống cháy rừng mặc dù được quan tâm chú trọng, triển khai đồng bộ, song do thời tiết khô hanh và ý thức của bà con dân tộc còn hạn chế nên trong năm 2014 đã xẩy ra 8 vụ cháy rừng, thiệt hại 57,75 ha. Trong đó, có 4 vụ cháy rừng trồng chưa thành rừng, thiệt hại 46,8 ha.

3. Thủy sản

Năm 2014, diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh thực hiện 4.968,7 ha, tăng 6,5% so năm trước, tăng chủ yếu là diện tích nuôi cá trong ruộng lúa tái sinh. Một số diện tích nuôi tôm sú đã chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng nên diện tích tôm thẻ chân trắng có tăng lên. Tổng số lồng, bè nuôi trồng thủy sản hiện có 1.201 lồng, bằng 99,8% so năm trước.

Thực hiện cải hoán nâng cao công suất phương tiện, đáp ứng khai thác hải sản xa bờ nên số lượng tàu có công suất nhỏ giảm. Phương tiện khai thác hải sản có động cơ 4.066 chiếc, so năm trước bằng 94,8%, tuy nhiên công suất tăng cao so năm trước. Đặc biệt, tàu có công suất trên 90 CV tăng 57,7%, tàu hoạt động khai thác xa bờ tăng 18,6%.

Dự ước sản lượng thủy sản thực hiện cả năm 64.538,9 tấn, tăng 7,2% so năm trước.

Sản lượng nuôi trồng 11.215,6 tấn, tăng 11,6% so năm trước. Cụ thể: Cá các loại 5.851,4 tấn, tăng 7,3%; tôm các loại 4.967 tấn, tăng 17,6%; Thủy sản khác 397,2 tấn, tăng 6,5%; riêng sản lượng tôm sú 722 tấn, bằng 96,1%, sản lượng tôm thẻ chân trắng 4.220 tấn, tăng 21,7%)

Sản lượng khai thác 53.323,3 tấn, tăng 6,3% so năm trước. Cụ thể: Cá các loại 44.154,8 tấn, tăng 6,8%; tôm các loại 1.050 tấn, tăng 1,1%; thủy sản khác 8.118,5 tấn, tăng 4,6% so năm trước. Riêng khai thác biển 50.431,7 tấn, tăng 6,6% so năm 2013.

4. Công nghiệp

* Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 12/2014 ước tính tăng 3,6% so với tháng trước và tăng 13,0% so với tháng 12/2013. Chỉ số sản xuất công nghiệp cộng dồn đến cuối tháng 12 năm 2014 tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành khai khoáng tăng 3,3%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt… tăng 16,0%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,2%.

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong năm 2014 tăng trưởng khá. Các ngành có chỉ số sản xuất tăng cao và có ảnh hưởng lớn đến chỉ số chung của toàn ngành công nghiệp như ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại; ngành sản xuất trang phục; ngành chế biến gỗ; ngành sản xuất đồ uống. Sản phẩm tinh bột sắn, mặc dù đã sản xuất trở lại, song do bước vào sản xuất mùa vụ muộn hơn so với năm trước (do tác động của cơn bão cuối năm 2013 đã ảnh hưởng rất lớn đến nguồn nguyên liệu đầu vào) nên sản phẩm đạt thấp so với cùng kỳ. Bên cạnh đó ngành khai thác quặng kim loại cũng giảm mạnh so với cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do các đơn vị hoạt động trong ngành này đã ngừng hoạt động khai thác do giấy phép đã hết hạn và đang chờ xin cấp lại giấy phép khai thác. 

Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2014 của một số ngành công nghiệp chủ yếu so với cùng kỳ năm trước: Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 18,7%; ngành sản xuất trang phục tăng 14,4%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 14,0%; ngành khai khoáng khác (đá xây dựng) tăng 7,5%; ngành sản xuất đồ uống tăng 7,2%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) tăng 6,4%; ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 6,0%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 4,1%; ngành in, sao chép bản ghi các loại tăng 0,8%. Bên cạnh đó, một số ngành gặp không ít khó khăn trong sản xuất như: ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 5,7%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 6,2%; ngành khai thác quặng kim loại giảm 30,5%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm (chủ yếu là sản phẩm tinh bột sắn) giảm 38,7%.

Các sản phẩm sản xuất chủ yếu ngành công nghiệp năm 2014: Đá xây dựng đạt 2,9 triệu m3, tăng 5,4% so cùng kỳ; mực đông lạnh đạt 1.147 tấn, giảm 6,5%; tinh bột sắn đạt 16.940 tấn, giảm 40,3%; bia đóng chai đạt 19,9 triệu lít, tăng 7,0%; gạch lát nền sản xuất đạt 6,7 triệu viên, giảm 1,1%; gạch xây bằng đất sét nung (không kể gạch block bằng xi măng) đạt 204,5 triệu viên, tăng 0,4%; clinker thành phẩm đạt 2,43 triệu tấn, tăng 56,5%; xi măng đạt 1,4 triệu tấn, tăng 15,2%; điện thương phẩm đạt 691 triệu Kwh, tăng 13,3%; nước máy đạt 7,1 triệu m3, tăng 6,0% so cùng kỳ năm trước…

* Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 2010 (giá của người sản xuất)

Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện năm 2014 đạt 8.594,1 tỷ đồng, tăng 10,0% so với cùng kỳ năm trước (kế hoạch tăng 10%) đạt 100% kế hoạch. Trong đó: ngành khai khoáng thực hiện đạt 363,8 tỷ đồng; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thực hiện đạt 7.915,8 tỷ đồng; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt… thực hiện đạt 242,6 tỷ đồng; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải thực hiện đạt 71,9 tỷ đồng.

Năm 2014, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp sản xuất sản phẩm không tìm được thị trường tiêu thụ,  phải ngừng sản xuất hoặc giải thể, năng lực sản xuất của một số nhà máy chủ lực của ngành công nghiệp đang tiến tới mức sản lượng tiềm năng. Bên cạnh đó, do tác động của cơn bão cuối năm 2013 đã ảnh hưởng rất lớn đến nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất tinh bột sắn, ngành sản xuất và chế biến mũ cao su… Tuy nhiên với sự quan tâm của các cấp các ngành, các cơ chế chính sách của Nhà nước, của tỉnh có nhiều thay đổi theo hướng tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, cơ sở hạ tầng được cải thiện tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển.

Đạt được tốc độ tăng trưởng 10% so với năm 2013, chủ yếu do sự đóng góp của các sản phẩm: xi măng, klinker của Nhà máy xi măng Sông Gianh, Nhà máy xi măng Văn Hóa, Nhà máy xi măng Vạn Ninh…; sản phẩm may của Xí nghiệp may Hà Quảng, Công ty Đại Thành; sản phẩm dăm gỗ của Công ty Cổ phần sản xuất lâm sản xuất khẩu Quảng Đông, Nhà máy chế biến dăm gỗ xuất khẩu Quảng Phú, Công ty TNHH Hào Hưng.

5. Xây dựng và vốn đầu tư

Năm 2014, trên địa bàn tỉnh triển khai thi công nhiều công trình lớn, đặc biệt là Dự án mở rộng Quốc lộ 1A với sự tham gia thi công của nhiều doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn. Vì vậy, giá trị ngành xây dựng và vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng cao so với năm 2013.

Dự ước giá trị sản xuất ngành xây dựng trên toàn tỉnh năm 2014 theo giá so sánh năm 2010 thực hiện 4.117,2 tỷ đồng, tăng 17% so cùng kỳ năm 2013. Trong đó, doanh nghiệp Nhà nước giá trị sản xuất ước thực hiện 163,1 tỷ đồng, tăng 15,3%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giá trị sản xuất ước thực hiện 2.787,2 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2013; khu vực xã/phường giá trị sản xuất ước thực hiện 10,1 tỷ đồng, tăng 10%; khu vực hộ dân cư giá trị sản xuất ước thực hiện 1.156,8 tỷ đồng, tăng 12,8% so với năm 2013.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2014 ước đạt 7.872 tỷ đồng, tăng 53,1% so với năm 2013. Trong đó, vốn đầu tư phát triển khu vực Nhà nước quản lý ước đạt 3.556,6 tỷ đồng, tăng 93,4%; vốn đầu tư phát triển khu vực ngoài nhà nước quản lý ước đạt 4.315,4 tỷ đồng, tăng 30,7% so với  năm 2013.

Đối với vốn đầu tư do Nhà nước quản lý: Trong năm nay, những dự án nằm trong chương trình nông thôn mới đang gấp rút thi công, những dự án này tập trung vào xây dựng chỉnh trang những tuyến đường, trường học giúp thay đổi bộ mặt nông thôn ngày càng rõ nét. Bên cạnh đó, các công trình giao thông, thuỷ lợi, đê kè chống lũ đẩy nhanh tiến độ thi công đảm bảo đúng tiến độ hoàn thành nhằm phát huy hiệu quả trong mùa mưa bão

6. Thương mại, dịch vụ

a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá

Năm 2014, tình hình kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, lạm phát được kiềm chế, người dân không còn cắt giảm chi tiêu dùng nhiều như năm trước, vì vậy, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt khá cao.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 12 năm 2014 ước đạt 1.282,7 tỷ đồng, tăng 4,1% so tháng trước và tăng 13,9% so cùng kỳ.

Dự ước năm 2014 tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 14.544,1 tỷ đồng, tăng 12,4% so năm 2013, nếu loại trừ yếu tố giá, ước tăng 7,5%.

Theo loại hình kinh tế, dự ước năm 2014, tất cả các loại hình đều tăng so với năm 2013: kinh tế Nhà nước đạt 1.348,5 tỷ đồng, tăng  17,6%; kinh tế tập thể đạt 16,1 tỷ đồng, tăng 6,7%; kinh tế cá thể đạt 8.175,9 tỷ đồng, tăng 11,0%; kinh tế tư nhân đạt 5.003,6 tỷ đồng, tăng 13,4% so năm 2013.

Theo nhóm ngành hàng, tăng cao nhất là nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng  21,5%; xăng dầu các loại tăng 18,3%; hàng may mặc tăng 17,5%;  vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 17,2%, tăng thấp nhất là nhóm nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 1,3%. Riêng nhóm hàng hóa khác, giảm 0,3% so năm 2013.

b. Khách sạn, nhà hàng, du lịch

Đang trong mùa mưa, bão, các hoạt động lưu trú, ăn uống, tham quan, nghỉ mát không sôi động như những tháng trước. Tuyvậy, doanh thu, nhà hàng, du lịch lữ hành và các hoạt động hỗ trợ vẫn duy trì ở mức cao.

Doanh thu khách sạn, nhà hàng, du lịch tháng 12 ước đạt 127,2 tỷ đồng, tăng 5,0% so tháng trước, tăng 22,8% so cùng kỳ. Trong tổng số, doanh thu khách sạn ước đạt 9,2 tỷ đồng, tăng 2,5% so tháng trước, tăng 5,5% so cùng kỳ; doanh thu nhà hàng ước đạt 115,5 tỷ đồng, tăng 5,2% so tháng trước, tăng 24,3% so cùng kỳ; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 2,5 tỷ đồng, tăng 5,0% so tháng trước, tăng 28,5% so cùng kỳ năm trước.

Doanh thu khách sạn, nhà hàng, du lịch năm 2014 ước đạt 1.621,9 tỷ đồng, tăng 23,5% so năm 2013.

Trong tổng số, doanh thu khách sạn ước đạt 151,6 tỷ đồng, tăng 5,0%; doanh thu nhà hàng ước đạt 1.375,8 tỷ đồng, tăng 24%; doanh thu lữ hành ước đạt 94,6 tỷ đồng, tăng 59,6% so năm 2013.

Năm 2014, số cơ sở lưu trú tăng khá, dự ước có 278 cơ sở, tăng 20,9% so năm 2013; số buồng 3.900, tăng 18,2%; số giường 7.500, tăng 20,1%. Mặc dù cơ sở vật chất tăng khá cao nhưng lượng khách lưu trú không tăng tương ứng. Ước 2014 lượt khách chỉ tăng 3,6%, ngày khách tăng 5,9% và doanh thu khách sạn chỉ tăng 5% so năm 2013.

Dự ước số lượt khách du lịch đến Quảng Bình tháng 12 đạt 123,2 ngàn lượt khách, tăng 32,6%, trong đó, khách quốc tế ước đạt 2,5 ngàn lượt khách, tăng 25,3% so cùng kỳ.

Dự ước cả năm 2014, tổng số khách đến đạt 2.748.369 lượt khách, tăng 99,8% so năm 2013, trong đó khách quốc tế ước đạt 43.253 lượt khách, tăng 26,4%. Nguyên nhân tăng cao do trong năm 2014 số người đến viếng mộ Đại tướng tăng cao đột biến (năm 2013 chỉ có từ tháng 11/2013), ước lượt khách đến viếng mộ Đại tướng năm 2014 đạt 1.469.780 lượt khách.

Trong tổng khách đến, số lượt khách du lịch lữ hành ước năm 2014 đạt 722.941 lượt khách, tăng 41%, lượt khách quốc tế lữ hành ước đạt 49.572 lượt khách, tăng 51,9% so năm 2013. Nguyên nhân lượt khách tăng cao do ngoài khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng và động Thiên Đường, hiện nay có thêm nhiều sản phẩm mới đưa vào khai thác như động Tú Làn và hang Sơn Đoòng… đã thu hút lượng lớn khách du lịch đến Quảng Bình.

 

 

c. Hoạt động dịch vụ

Hoạt động dịch vụ vẫn duy trì mức ổn định, đáp ứng nhu cầu của người dân. Doanh thu dịch vụ tháng 12 ước đạt 62,5 tỷ đồng, tăng 4,3% so tháng trước và tăng 9,7% so cùng kỳ. Dự ước cả năm 2014, doanh thu hoạt động dịch vụ đạt 680,4 tỷ đồng, tăng 9% so năm 2013. Trong đó, nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo có mức tăng cao nhất, tăng 23,9%; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 22,4%; nhóm hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 11,2%; duy nhất một nhóm giảm, dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình giảm 11,3% so năm 2013.

d. Xuất, nhập khẩu

- Xuất khẩu

Mặc dù tình hình xuất khẩu còn nhiều khó khăn nhưng các đơn vị xuất khẩu có nhiều cố gắng trong việc khai thác mặt hàng mới, tích cực tìm kiếm thị trường đầu ra, nên kết quả xuất khẩu 2014 đạt được trị giá tương đối cao. Dự ước kim ngạch xuất khẩu tháng 12 đạt 27,2 triệu USD, cả năm 2014, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 150,1 triệu USD, tăng 8,5% so năm 2013 và đạt 100,1% kế hoạch năm.

Trong tổng số, xuất khẩu trực tiếp chiếm 83,1%, uỷ thác chiếm 16,9%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm 98,7%, còn lại 1,3% là của khu vực kinh tế nhà nước; chia theo ngành hàng thì hàng nông sản chiếm tỷ trọng lớn nhất với 46,2%, tiếp đến là hàng công nghiệp chế biến chiếm 25,9%; hàng hàng lâm sản chiếm tương đương với 23,3%; còn lại 4,6% là nhóm hàng thuỷ sản và hàng công nghiệp nặng - khoáng sản.

Về mặt hàng xuất khẩu, ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như: cao su, dăm gỗ, gỗ các loại, thuỷ sản, nhựa thông, phân bón, cà phê hạt, than gỗ, quần áo may sẵn..., năm nay xuất hiện thêm một số mặt hàng mới như: Áo quần may sẵn, tinh bột sắn, và đặc biệt là xăng dầu có trị giá khá lớn, khoảng 3,5 triệu USD.

Năm nay, sản lượng xuất của hầu hết các mặt hàng quan trọng đều tăng, cụ thể: gỗ các loại, tăng 41%, nhưng do giá xuất giảm nên về giá trị chỉ tăng 32,6%. Tiếp theo là dăm gỗ khô, tăng 25,9%. Mặt hàng có trị giá chiếm tỷ trọng lớn nhất là cao su tăng 18,7%. Các mặt hàng giảm đều là các mặt hàng của địa phương như: Nhựa thông, giảm 50,9% (do ảnh hưởng của các cơn bão mạnh trong năm 2013); phân bón giảm 3,5%, thủy sản giảm 6,4%.

Tình hình cụ thể một số mặt hàng chủ yếu như sau:

- Cao su: Dự ước tháng 12 xuất 5 ngàn tấn, cả năm xuất 35,3 ngàn tấn, tăng 18,7% so cùng kỳ và vượt 26,2% kế hoạch năm.

- Thuỷ sản: Ước 12 tháng xuất 114,5 tấn, cả năm 2014 ước xuất 400 tấn, bằng 93,6% so cùng kỳ năm trước.

- Dăm gỗ khô: Tháng 12 ước xuất 43,5 ngàn tấn, ước cả năm 2014, sản lượng dăm gỗ xuất đạt 226,5 ngàn tấn, tăng 25,9% so cùng kỳ.

- Gỗ: Ước tháng 12  xuất 3,2 ngàn m3, ước cả năm 2014 xuất 24,7 ngàn m3, tăng 41% so cùng kỳ và vượt 54,2% kế hoạch năm.

- Phân bón: Ước tháng 12 xuất được 0,6 ngàn tấn. Dự tính cả năm ước đạt 14,2 ngàn tấn, bằng 96,5% so cùng kỳ và đạt 94,5% kế hoạch năm.

- Nhựa thông, sản lượng xuất đạt thấp so cùng kỳ, do nguồn hàng khai thác giảm mạnh nên cả năm chỉ đạt khoảng 900 tấn, bằng 49,1% so cùng kỳ và đạt 30% kế hoạch năm.

Các mặt hàng còn lại như: Vật liệu xây dựng, nón lá, than củi, cà phê hạt, xăng dầu, quần áo may sẵn giá trị nhỏ, tổng cộng trị giá tất cả vào khoảng 8,5 ngàn USD.

Về thị trường xuất khẩu, trong năm nay, các doanh nghiệp trong tỉnh có quan hệ ngoại thương với 15 nước (nhiều hơn 1 nước so năm trước). Trong đó, Trung Quốc là thị trường số 1 với thị phần 85,9% (cao su, gỗ, dăm gỗ), các nước còn lại chỉ chiếm 11,5%.

Nhìn chung, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như cao su, gỗ đều là hàng có nguồn gốc tỉnh bạn hoặc tạm nhập tái xuất. Trong khi đó, hàng khai thác tại địa phương chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ , một số mặt hàng truyền thống dần dần bị sút giảm (quặng titan, thuỷ sản), thậm chí bị biến mất trên thị trường (mặt mây, đồ gỗ…). Trong số hàng hoá khai thác trong tỉnh, đại bộ phận là hàng sơ chế, nguyên liệu thô, giá trị công nghệ kết tinh thấp, tính cạnh tranh không cao, hiệu quả kinh tế thấp. Bên cạnh đó, giá cả bấp bênh đã làm ảnh hưởng lớn đến tổng kim ngạch chung của cả tỉnh.

- Nhập khẩu:

Dự ước tháng 12, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 7,6 triệu USD, cả năm ước đạt 110,2 triệu USD, tăng 4,3% so năm 2013, gấp 2,2 lần so kế hoạch năm 2014. Nguyên nhân kim ngạch nhập khẩu tăng cao là do có mặt hàng mới là xăng dầu nhập từ Singapor giá trị khá cao.

Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu bao gồm: Gỗ các loại, nguyên vật liệu sản xuất tân dược, gốm sứ, trâu bò sống, xăng dầu.

Trong tổng kim ngạch nhập khẩu, 100% nhập trực tiếp và 100% là của khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Hàng hoá nhập chiếm 99,96% tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng chỉ chiếm 0,04%.

 Mặt hàng nhập khẩu đơn điệu, ngoài một số nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong tỉnh (ván ép tre, gốm sứ, may mặc, dược phẩm) với trị giá nhỏ, còn lại chủ yếu là hàng tạm nhập tái xuất (gỗ, cà phê, xăng dầu..) và hàng hoá bán ra ngoài tỉnh (trâu, bò sống…) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng trị giá nhập khẩu.

e. Hoạt động vận tải

Từ đầu năm đến nay, giá cả xăng dầu thế giới giảm liên tục, đặc biệt sang tháng 12, giá cả xăng dầu giảm sâu chỉ còn dưới 60 USD/ thùng, vì vậy xăng, dầu trong nước đã nhiều lần giảm giá liên tiếp. Việc giảm giá xăng, dầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp giảm giá cước vận tải.

Dự ước năm 2014, tổng doanh thu hoạt động vận tải ước đạt 2.304 tỷ đồng, tăng 13% so năm 2013. Trong đó, doanh thu vận tải đường bộ ước đạt 2.222 tỷ đồng, tăng 15,9%; vận tải đường thủy ước đạt 53,5 tỷ đồng, tăng 0,7%; vận tải kho bãi ước đạt 28,5 tỷ đồng, giảm 58,5% so năm 2013.

Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 12 ước đạt 1.410 ngàn tấn, ước 12 tháng đạt 17.914,7 ngàn tấn, tăng 10,1%; khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 12 ước đạt 75.776 ngàn tấn.km, ước 12 đạt 909.088 ngàn tấn.km, tăng 11,2% so năm 2013. Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 12 ước đạt 1.581,9 ngàn người, ước 12 tháng đạt 18.670 ngàn người, tăng 11,1%; khối lượng hành khách luân chuyển tháng 12 ước đạt 71.167,5 ngàn người.km, ước 12 tháng đạt 816.239 ngàn người.km, tăng 11,2% so năm 2013.

Nhìn chung, hoạt động vận tải tiếp tục phát triển một cách toàn diện, hệ thống giao thông được sửa chữa, làm mới và nâng cấp, phương tiện vận chuyển ngày càng được tăng cường và đổi mới cả về đường bộ, đường sông và đường biển, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa cũng như đi lại của người dân.

f. Chỉ số giá

* Chỉ số giá tiêu dùng

  Năm 2014 là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Chỉ số giá bình quân năm 2014 tăng 4,39% so với bình quân năm 2013, thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,15% của năm 2013.

  Mặc dù là tháng cuối năm, nhưng giá cả thị trường hàng hóa vẫn chưa có nhiều biến động, giá cả hàng hóa tương đối ổn định, sức mua thị trường chưa có gì đột biến. Bên cạnh đó, giá xăng dầu tiếp tục được điều chỉnh giảm 3 đợt liên tiếp trong tháng tính giá, vì vậy, chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục giảm.

  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm 2014 giảm 0,25% so với tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 2,25%; và bình quân mười hai tháng năm 2014 tăng 4,39% so với cùng kỳ năm 2013 (trong đó, nhóm hàng hóa tăng 4,08%, nhóm dịch vụ tăng 5,21%).

Trong 11 nhóm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng có 9 nhóm tăng giá và 2 nhóm giảm giá đó là nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng và nhóm giao thông. Cụ thể diễn biến giá tiêu dùng của một số nhóm hàng chính trong tháng 12 năm 2014 như sau:

  - Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,03%.

  - Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,48%.

  - Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,4%.

  - Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,92%.

  - Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,57%.

  - Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%.

  - Nhóm giao thông giảm 3,52%.

  - Nhóm Bưu chính viễn thông tăng 0,41%.

  - Nhóm giáo dục tăng 0,06%.

  - Nhóm văn hoá, giải trí du lịch tăng 0,5%.

  - Hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,17%.

  * Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ:

  Giá vàng so với tháng trước giảm 0,5%; so với bình quân cùng kỳ giảm 11,07%; so với kỳ gốc 2009 tăng 62,62%.

  Giá đô la Mỹ (USD) tăng 0,94% so với tháng trước; so với bình quân cùng kỳ tăng 0,42%; so với kỳ gốc 2009 tăng 20,90%.

  7. Thu, chi ngân sách Nhà nước

  Thu chi ngân sách: Trong điều kiện kinh tế khó khăn, đồng thời phải thực hiện các giải pháp miễn, giảm thuế, gia hạn, giãn thời gian nộp thuế theo chủ trương của Chính phủ để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, UBND tỉnh đã chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp thu, tập trung thu hồi nợ đọng thuế, phát triển quỹ đất để tăng nguồn thu, nên thu ngân sách vẫn tăng trưởng so cùng kỳ.

Dự ước tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 2014 đạt 2.264,9 tỷ đồng, bằng 103,0% dự toán cả năm và tăng 10,1% so với năm trước. Trong đó thu nội địa ước đạt 2.000 tỷ đồng, bằng 108,7% dự toán và tăng 5,8%. Thu cân đối ngân sách đạt dự toán và tăng trong điều kiện sản xuất gặp nhiều khó khăn đó là sự nỗ lực lớn của các ngành chức năng cũng như các đối tượng nộp thuế. Một số lĩnh vực có tỷ lệ thu tăng khá so với cùng kỳ năm trước như thu từ DNNN TW 133,7 tỷ đồng, tăng 9,0%; lệ phí trước bạ 101,2 tỷ đồng, tăng 8,8%; thu tiền sử dụng đất 532,5 tỷ đồng, tăng 28,3% so cùng kỳ năm 2013; Thuế xuất nhập khẩu ước thu 264,9 tỷ đồng, bằng 73,6% dự toán và tăng 58,8%. Tuy nhiên có 2 khoản thu giảm nhiều so với năm trước là: thuế thu nhập cá nhân giảm 11,8%; thu từ DN có vốn ĐTNN giảm 65,7%.

Tổng chi ngân sách ước đạt 10.074 tỷ đồng. Trong đó chi đầu tư phát triển 3.662,7 tỷ đồng; chi thường xuyên 6.411,2 tỷ đồng. Các khoản chi quan trọng trong chi thường xuyên đều bảo đảm như: chi sự nghiệp giáo dục đào tạo 1.950,5 tỷ đồng; chi quản lý hành chính 1.341,9 tỷ đồng...

II. VĂN HÓA - XÃ HỘI

1. Dân số, lao động, việc làm và đời sống dân cư

Dân số trung bình năm 2014 ước tính 868.174 người, tăng 0,56% so với năm 2013, trong đó, nam 435.212 người, nữ 432.962 người; Trong xu thế đô thị hoá cùng với việc thành lập mới thị xã Ba Đồn đã làm cho dân cư ở khu vực thành thị tăng nhanh, ngược lại dân số khu vực nông thôn giảm; dân số trung bình năm 2014 khu vực thành thị là 169.532 người, tăng 29,2%, nông thôn 698.642 người, giảm 4,57% so với 2013.

Trong năm 2014, Nhà nước có nhiều chủ trương tạo việc làm mới cho người lao động như: cho vay vốn giải quyết việc làm; đẩy mạnh hoạt động tại các trung tâm xúc tiến việc làm, phát triển các chương trình kinh tế, nhờ vậy đã tạo ra được nhiều việc làm mới cho người lao động, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Số người làm việc trong các ngành kinh tế tăng khá so với cùng kỳ. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2014 ước tính 530.550 người, tăng 2,39% so với năm 2013; trong đó, lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 55,97%, giảm 1,96 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 16,93%, tăng 0,74 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 27,10%, tăng 1,22 điểm phần trăm.

Các hoạt động xúc tiến việc làm đã được chú trọng đẩy mạnh, nên năm 2014, đã giải quyết việc làm cho 3,21 vạn lao động; trong đó đã tạo việc làm mới cho 2,11 vạn lao động. Nhờ đó, đã góp phần tích cực làm giảm thiểu đáng kể tỷ lệ thất nghiệp; tỷ lệ thất nghiệp chung của tỉnh năm 2014 là 1,76%, giảm 0,28 điểm phần trăm so với năm trước; trong đó khu vực thành thị 2,42% và khu vực nông thôn là 1,65%.

Kinh tế năm 2014 tiếp tục tăng trưởng thu nhập và đời sống của dân cư ngày một tăng lên. Năm 2014 là 1.821 ngàn đồng, tăng 12% so với năm 2013; trong đó, khu vực  thành thị 2.950 ngàn đồng, tăng 4,4%; khu vực nông thôn 1.595 ngàn đồng, tăng 14,7%. Thu nhập tăng lên góp phần đảm bảo đời sống dân cư, nhưng giữa các thành phần, giữa các vùng miền, thu nhập còn có sự chênh lệch lớn. Theo Khảo sát mức sống hộ gia đình,chênh lệch thu nhập giữa nhóm thấp nhất và nhóm cao nhất năm 2012 là 7,5 lần và năm 2014 là 7,9 lần. Như vậy, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét.

2. Công tác bảo đảm an sinh xã hội

Công tác an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo luôn nhận được sự quan tâm, đầu tư của các cấp, các ngành và nhiều lực lượng xã hội tham gia.

Đã có 105 tập thể và cá nhân đã ủng hộ trực tiếp Quỹ “Vì người nghèo” với số tiền 507,5 triệu đồng. Ngoài ra còn có 58 đơn vị đăng ký ủng hộ Quỹ và làm nhà Đại đoàn kết với số tiền 7.084,7 triệu đồng. Trong năm 2014, Quỹ người nghèo 3 cấp đã thu được 9.677,9 triệu đồng.

Theo báo cáo của Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh, đến cuối năm 2014, số hộ nghèo toàn tỉnh chỉ còn 23.396 hộ (tỷ lệ 10,44%), so với năm 2013 tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,74% (tương đương với 8.400 hộ thoát nghèo). Nếu loại trừ các các hộ thuộc đối tượng chính sách khó có khả năng thoát nghèo (3.942 hộ) thì đến cuối năm 2014, số hộ nghèo toàn tỉnh 19.454 hộ và tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 8,67% (giảm 5,51% so với năm 2003, vượt mức của kế hoạch 2014 đề ra).

Trong năm 2014, các tổ chức thành viên, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đã trực tiếp vận động ủng hộ với tổng số tiền 25.805 triệu đồng. Trong đó giúp khám chữa bệnh cho người nghèo 13.824 lượt với số tiền 367 triệu đồng, giúp phát triển sản xuất với số tiền 9.525 triệu đồng hỗ trợ Tết và các chương trình khác với số tiền 14.910 triệu đồng.

Đến nay Quỹ cứu trợ tỉnh đã thu được 10.977,72 triệu đồng, trong đó đã phân bổ 6.143.31 triệu đồng, đến nay Quỹ còn 4.834,40 triệu đồng.

Năm 2014, đã triển khai xây dựng và sửa chữa 81 nhà “Đại đoàn kết” do Quỹ Thiện Tâm tài trợ. Phối hợp với Tỉnh đoàn triển khai xây dựng 97 nhà đại đoàn kết với số tiền 2,6 tỷ đồng từ nguồn Quỹ vì người nghèo từ Mặt trận Trung ương chuyển về. Các tổ chức thành viên, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đã hỗ trợ xây dựng 41 nhà Đại đoàn kết với số tiền 1.082 triệu đồng.

3. Giáo dục - Đào tạo

Đến cuối năm 2014, toàn tỉnh có 178 trường mầm non và mẫu giáo, 209 trường tiểu học, 148 trường trung học cơ sở, 18 trường phổ thông cơ sở, 27 trường trung học phổ thông, 6 trường cấp 2/3, 1 trường đại học và 4 trường trung học chuyên nghiệp.

Quy mô các cấp học, bậc học đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân trong tỉnh. Năm học 2014 - 2015, số học sinh mẫu giáo 40.851 em; số học sinh tiểu học 70.722 em; số học sinh trung học cơ sở 54.363 em; số học sinh trung học phổ thông 29.919 em. Chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em tại các cơ sở giáo dục mầm non từng bước được nâng lên. Công tác xóa mù chữ ngày càng được cải thiện và đạt được những kết quả nhất định. Đến cuối năm 2014, đã có 158/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đạt tỷ lệ 99,37%; 157/159 xã, phường, thị trấn được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đạt tỷ lệ 98,74%. Công tác phổ cập giáo dục trung học phổ thông đang được tỉnh triển khai tích cực.

Đến cuối năm 2014, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn cấp trung học phổ thông là 100%, trung học cơ sở là 99,92%, bậc tiểu học là 99,98%.

Giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề có chuyển biến. Trường Đại học Quảng Bình năm học 2014 - 2015, số giáo viên đại học 204 người, tăng 14,61%, số sinh viên đại học 2.758 học sinh, tăng 6,73% so với năm học 2013 - 2014.

Mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề, trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm, giới thiệu việc làm phát triển rộng khắp. Năm học 2014 - 2015, toàn tỉnh đã có 4 trường trung học chuyên nghiệp, tăng 1 trường; số giáo viên 205 người, tăng 2,0%, số học sinh 1.828 học sinh, giảm 23,2% so với năm học 2013 - 2014.

Năm 2014 hệ thống trường lớp ngày càng hoàn thiện, chất lượng đội ngũ giáo viên, học sinh ngày càng được nâng cao. Tuy vậy, chất lượng giáo dục - đào tạo vẫn còn một số mặt hạn chế, giáo dục đạo đức cho học sinh còn mang tính hình thức. Chất lượng chung giữa các trường thành thị và nông thôn còn chênh lệch nhiều. Giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề mặc dù có tiến bộ nhưng vẫn đang chạy theo số lượng, chuyên dạy lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành, kỹ năng mềm (tâm lý, đạo đức, tác phong công nghiệp của người lao động) nên chất lượng chưa được cải thiện. Nhìn chung, chất lượng giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu.

4. Y tế

Toàn tỉnh hiện có 192 cơ sở y tế nhà nước, trong đó có 9 bệnh viện, 6 phòng khám khu vực, 159 trạm y tế xã phường, 3 trạm y tế của các cơ quan xí nghiệp. Tổng giường bệnh có 2.811 giường, trong đó bệnh viện 1.831 giường, phòng khám khu vực 100 giường, trạm y tế xã phường 820 giường, trạm y tế của các cơ quan xí nghiệp 60 giường. Ngoài ra, do nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng khu vực y tế ngoài nhà nước đã có sự phát triển mạnh mẽ; đến nay, toàn tỉnh đã có 135 cơ sở y tế ngoài nhà nước với 220 giường bệnh, trong đó có 83 phòng khám đa khoa với 156 giường bệnh, 4 nhà hộ sinh với 8 giường bệnh và 48 cơ sở y tế khác với 56 giường bệnh. Nhờ đó, năng lực phục vụ khám, điều trị được tăng cường do được đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu về trang thiết bị phục vụ khám, chữa bệnh.

Đến cuối năm 2014, đã có 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế; 100% trạm y tế xã có bác sĩ làm việc tại trạm; 75,47% (120/159) trạm y tế xã, phường đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ cán bộ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Tổng số cán bộ ngành y khu vực nhà nước năm 2014 có 2.960 người, tăng 2,8% so với năm 2013; trong đó, Bác sĩ và trên đại học 668 người, tăng 1,1%; Y sĩ 561 người, tăng 0,4% so với năm 2013. Tổng số cán bộ ngành dược khu vực nhà nước năm 2014 có 339 người, tăng 1,5% so với năm 2013; trong đó, Dược sĩ và trên đại học 40 người, tăng 5,3%; Dược sĩ trung cấp 287 người, tăng 1,1% so với năm 2013.

Chỉ số sức khoẻ của nhân dân được nâng lên, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em năm 2014 ước tính là 19,0%, giảm 0,8% so với năm 2013.

Năm 2014, trên địa bàn tỉnh phát hiện 66 người nhiễm mới HIV, 20 người chuyển sang AIDS, 7 người tử vong do AIDS. Tính đến nay, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.276 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 278 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 90 người.

Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng, tập trung vào các quầy tạp hoá, chợ, các nơi bán thực phẩm hàng ngày. Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 7 vụ ngộ độc thực phẩm làm 107 người mắc (1 vụ tại huyện Lệ Thuỷ làm 58 người mắc, 6 vụ tại huyện Minh Hoá làm 49 người mắc); ngoài ra còn có một số ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ tại các địa phương, không có tử vong xảy ra do ngộ độc thực phẩm.

Tuy vậy, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trrong năm qua vẫn còn một số yếu kém và bất cập: Cơ sở vật chất ngành y tế chưa đáp ứng tốt yêu cầu, đặc biệt trang thiết bị y tế cho tuyến cơ sở còn thiếu, số lượng giường bệnh thấp, hạn chế về khả năng khám, điều trị bệnh. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao và giảm chậm so với kế hoạch. Nguồn lực đầu tư cho y tế còn ít, còn thiếu những thầy thuốc giỏi và trang thiết bị tốt ở tuyến y tế huyện và xã để nhân dân tin cậy trong khám và chữa bệnh. Công tác kiểm tra, quản lý các hoạt động hành nghề y, dược tư nhân, các phòng mạch tư nhân, các đại lý bán thuốc chưa chặt chẽ. Giá thuốc, giá các dịch vụ khám chữa bệnh khu vực tư nhân nói chung còn cao. Việc khám chữa bệnh tại các bệnh viện công chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân.

5. Hoạt động văn hóa - thông tin

Lĩnh vực văn hóa có những bước phát triển mới, góp phần nâng cải thiện đời sống văn hóa tinh thần các tầng lớp dân cư.

Các lễ hội truyền thống như Lễ hội đập trống của người Ma Coong; Lễ hội Rằm tháng ba ở huyện Minh Hóa; Lễ dâng hương Giổ tổ Hùng Vương ở thành phố Đồng Hới; Lễ hội đua thuyền ở các huyện, thành phố chào mừng Tết độc lập 2/9; Lễ hội cầu mùa của đồng bào Vân Kiều; Lễ hội cầu ngư của bà con vùng biển; Lễ hội đền Liễu Hạnh công chúa, huyện Quảng Trạch… được các địa phương duy trì, vừa giữ gìn những giá trị truyền thống vừa thu hút khách du lịch thập phương đến Quảng Bình.

Công tác thanh tra, kiểm tra được chú trọng, đến nay, đã tổ chức 14 đợt thanh tra, kiểm tra đối với 195 lượt cơ sở, trong đó 149 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá, lữ hành và lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh và hoạt động treo móc panô quảng cáo; Kết quả thanh kiểm tra 149 cơ sở, đã xử lý vi phạm hành chính và phạt tiền đối với 5 cơ sở với số tiền 19,5 triệu đồng, buộc tháo dỡ 598 panô, áp phích quảng cáo treo, móc sai vị trí quy định, tịch thu 370 đĩa ngoài luồng, 410 sách, tranh ảnh về bói toán không rõ nguồn gốc; tiêu hủy 1.325 đĩa, 1.440 sách và tranh ảnh bói toán…; Kiểm tra 46 cơ sở kinh doanh dịch vụ thể dục thể thao, tiến hành lập biên bản kiểm tra 43 cơ sở và xử phạt 3 cơ sở vi phạm hành chính (phạt tiền 6 triệu đồng đối với 3 cơ sở vi phạm).

Công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích được tăng cường, các giá trị văn hóa trên địa bàn tỉnh như: Di tích Ga Kẻ Rấy, Di tích Chùa Quán Âm tự (Bố Trạch), Di tích Đền Liễu Hạnh Công chúa, Di tích Nhà thờ Nguyễn Hữu Cảnh và Nhà lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều được thực hiện tốt việc bảo quản hiện vật, hiện trạng.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được duy trì, triển khai thực hiện sâu rộng trên địa bàn của tỉnh. Đến cuối năm 2014, toàn tỉnh đã có 79% hộ gia đình, 49% làng, thôn, bản, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hoá. Các đơn vị, làng được tặng danh hiệu văn hoá đã tổ chức đón nhận trang trọng, tiết kiệm và ý nghĩa.

6. Hoạt động thể dục - thể thao

- Thể thao quần chúng

Hoạt động thể dục thể thao có chuyển biến mạnh mẽ cả về xây dựng cơ sở vật chất, quy mô phong trào rèn luyện và kết quả thi đấu. Đến cuối năm 2014, toàn tỉnh đã có 2.045 điểm tập luyện thể dục thể thao. Số người rèn luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 29,5%, Gia đình thể thao đạt 24,3% và 100% trường học thực hiện giáo dục thể chất. Các hoạt động thể thao, các cuộc thi đấu của các cơ quan, ban, ngành và ở các địa phương diễn ra thường xuyên, đạt chất lượng, tạo không khí vui tươi, lành mạnh, có tác dụng cổ vũ tinh thần lao động, sản xuất của nhân dân.

- Thể thao thành tích cao

Thể thao thành tích cao tỉnh Quảng Bình ngày càng có những bước tiến vững chắc trên đấu trường toàn quốc và quốc tế. Trong năm 2014, các đội tuyển thể thao Quảng Bình đã tham gia thi đấu các giải khu vực, toàn quốc và quốc tế  đạt được 157 huy chương các loại (58 HCV, 50 HCB, 49 HCĐ), trong đó có 24 HC quốc tế (12 HCV, 4 HCB, 8 HCĐ).

7. Tình hình trật tự an toàn xã hội

- An toàn giao thông

Theo báo cáo của Công an tỉnh, 11 tháng năm 2014, toàn tỉnh đã xảy ra 295 vụ tai nạn giao thông, giảm 104 vụ so cùng kỳ năm 2013, trong đó đường bộ 293 vụ, đường sắt 2 vụ, đường thuỷ không xảy ra. Số người chết do tai nạn giao thông 124 người, giảm 9 người so với cùng kỳ năm 2013, trong đó đường bộ chết 122 người, đường sắt chết 2 người, đường thuỷ không xảy ra. Số người bị thương do tai nạn giao thông 314 người, giảm 111 người so cùng kỳ năm 2013, trong đó đường bộ bị thương 314 người.

Nguyên nhân tai nạn chủ yếu là do ý thức chấp hành pháp luật về an toàn giao thông của một bộ phận người tham gia giao thông chưa cao, điều khiển mô tô xe máy không đội mũ bảo hiểm, sử dụng quá nồng độ rượu bia cho phép, điều khiển phương tiện đi với tốc độ lớn, lạng lách đánh võng còn xảy ra trên các tuyến đường bộ, do đó đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng trên các địa bàn của tỉnh.

- An toàn xã hội và pháp luật

Theo báo cáo của Công an tỉnh, luỹ kế 11 tháng đầu năm 2014, phạm pháp kinh tế xảy ra 4 vụ với 10 đối tượng vi phạm, so với cùng kỳ năm 2013 số vụ tăng 1 vụ đối tượng vi phạm tăng 7 người. Phạm pháp hình sự 656 vụ với 839 đối tượng phạm tội, so cùng kỳ năm 2013 số vụ tăng 179 vụ, đối tượng phạm tội tăng 95 người; Buôn bán, vận chuyển ma túy bị phát hiện 51 vụ với 83 đối tượng vi phạm, so cùng kỳ năm 2013 số vụ tăng 10 vụ, đối tượng vi phạm tăng 12 người; Sử dụng ma túy bị phát hiện 37 vụ với 67 đối tượng vi phạm, so cùng kỳ năm 2013, số vụ tăng 16 vụ và đối tượng vi phạm tăng 29 người.

8. Thiệt hại thiên tai

Từ đầu năm đến nay thiên tai không xảy ra trên địa bàn tỉnh, nên không có thiệt hại do thiên tai gây ra.

9. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường

Năm 2014, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 31 vụ cháy, số người bị thương 2 người, giá trị thiệt hại 3.582 triệu đồng, so với cùng kỳ năm 2013 số vụ cháy tăng 14 vụ, giá trị thiệt hại giảm 17.770 triệu đồng. Toàn tỉnh đã xảy ra 2 vụ nổ làm chết 3 người. Số vụ vi phạm môi trường được phát hiện 50 vụ , các ngành chức năng đã xử lý vi phạm 41 vụ và phạt tiền 151 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước, số vụ vi phạm đã phát hiện bằng cùng kỳ, số vụ đã xử lý vi phạm giảm 5 vụ và số tiền phạt tăng 57,8 triệu đồng.

Tóm lại, năm 2014 tuy vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng các ngành, các lĩnh vực đã chuyển biến theo hướng tích cực, đạt được tăng trưởng cao. Đạt được kết quả trên khẳng định tính kịp thời, tính hiệu quả của các biện pháp, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đã được Chính phủ ban hành. Thể hiện sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, chính quyền các cấp, sự nỗ lực của các ban, ngành và cộng đồng doanh nghiệp, sự đồng thuận, cùng chia sẻ khó khăn của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2014.

Mục tiêu 2015 là tiếp tục tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn và vững chắc hơn năm 2014. Để thực hiện thành công mục tiêu đó, cần tập trung thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, tích cực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi tối đa cho sản xuất kinh doanh. Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp chính sách để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hạn chế nợ xấu, giải quyết dứt điểm nợ đọng của ngân sách.

Hai là, đẩy mạnh sản xuất vụ Đông, chuẩn bị tốt các điều kiện sản xuất vụ Đông Xuân. Tiếp tục ổn định và phát triển tổng đàn gia súc, gia cầm, tăng cường phòng, chống dịch bệnh. Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích, hỗ trợ nhằm đẩy mạnh hoạt động đánh bắt vùng biển xa bờ. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới phù hợp với điều kiện cụ thể và nguồn lực địa phương. Chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống lụt bão và các phương án cứu hộ, cứu nạn khi có lụt bão xảy ra.

Ba là, đẩy mạnh xúc tiến mời gọi đầu tư, đẩy nhanh tiến độ các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa theo hướng đa dạng, đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường lớn. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, giá cả. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; khuyến khích sử dụng hàng hóa và dịch vụ do doanh nghiệp trong tỉnh sản xuất như: xi măng, phân bón, bia Hà Nội - Quảng Bình... 

 Bốn là, thực hiện tốt đổi mới công tác giáo dục và đào tạo cho các bậc học, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong lĩnh vực y tế. Kiểm soát, phòng ngừa các loại dịch bệnh; kiểm tra chặt chẽ vệ sinh an toàn thực phẩm. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền tạo đồng thuận cao trong nhân dân.

Năm là, quan tâm và thực hiện tốt các chính sách đối với những đối tượng nghèo, gia đình có công. Triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, ma túy, mua bán người; kiên quyết đấu tranh, triệt phá các băng nhóm tội phạm. Bảo đảm trật tự an toàn giao thông và trật tự xã hội. Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng an ninh với xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội bền vững./.

[Trở về]