THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
THÔNG CÁO BÁO CHÍ Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2023 

Quảng Bình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) năm 2023 với nhiều khó khăn: Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột Nga - Ukraine kéo dài, lạm phát tăng cao và hậu quả của đại dịch COVID-19 dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu; trong nước, giá xăng, dầu, nguyên vật liệu biến động mạnh tác động tiêu cực đến hầu hết các ngành kinh tế, thị trường bất động sản trầm lắng,... Bên cạnh khó khăn, có những thuận lợi: Các ngành kinh tế trên đà phục hồi, ổn định và tăng trưởng cao, dịch COVID-19 được kiểm soát tốt nên các ngành dịch vụ và đặc biệt là du lịch phục hồi và phát triển mạnh mẽ,...

Xác định năm 2023 là năm có ý nghĩa hết sức quan trọng, là năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, sáu tháng đầu năm 2023, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó ưu tiên chú trọng các giải pháp phục hồi, phát triển KTXH theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2023 của Chính phủ; cùng với sự cố gắng nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp (DN) và Nhân dân trong toàn tỉnh, nhờ đó KTXH 6 tháng đầu năm tỉnh Quảng Bình đã đạt những kết quả quan trọng: Kinh tế ổn định và tăng trưởng khá, GRDP 6 tháng đầu năm ước tính tăng 6,90% (đứng thứ 20 cả nước và đứng thứ 2 các tỉnh Bắc Trung bộ); sản xuất vụ Đông Xuân đạt kết quả khả quan, khai thác thủy sản được đẩy mạnh; sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao; du lịch phục hồi và tăng trưởng nhanh; môi trường đầu tư từng bước được cải thiện; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống văn hóa và tinh thần của người dân tiếp tục được cải thiện; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm,...

MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NHƯ SAU:

1. Về tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)

Ước tính GRDP (theo giá so sánh năm 2010) trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2023 đạt 14.173,9 tỷ đồng, tăng 6,90% so với cùng kỳ năm trước [1]. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 2.660,8 tỷ đồng, tăng 2,91%, đóng góp 0,57 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 3.698,4 tỷ đồng, tăng 8,91%, đóng góp 2,28 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đạt 7.269 tỷ đồng, tăng 7,44%, đóng góp 3,8 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 545,7 tỷ đồng, tăng 6,69% so với cùng kỳ năm 2022, đóng góp 0,25 điểm phần trăm trong tăng trưởng kinh tế chung toàn tỉnh.

Quy mô GRDP 6 tháng đầu năm 2023 (theo giá hiện hành) đạt 26.480,3 tỷ đồng. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 20,20%, giảm 0,74 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 29,67% (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm), tăng 0,23 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 50,13%, tăng 0,52 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2022.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm nay cao hơn tốc độ tăng trưởng của 6 tháng đầu năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,19%) nhờ có sự đóng góp quan trọng của khu vực dịch vụ (đóng góp 3,8 điểm phần trăm trong tổng số 6,9%). Dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh được kiểm soát tốt nên các hoạt động thương mại, dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận tải, du lịch lữ hành và các dịch vụ vui chơi, giải trí,... đã có sự phục hồi mạnh mẽ với mức tăng trưởng đáng kể, trong đó nổi bật là ngành du lịch đã có sự phục hồi nhanh, lượt khách đến Quảng Bình tăng cao, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên đán và các ngày Lễ 30/4, 1/5,…; bên cạnh đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng đạt tốc độ tăng trưởng khá cao so với tốc độ tăng trưởng của 6 tháng đầu năm 2022 (2,91% so với 1,48%). Trong 3 khu vực của nền kinh tế, chỉ có khu vực công nghiệp, xây dựng tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với tốc độ của cùng kỳ năm trước.

2. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất vụ Đông Xuân 2022-2023 thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo lịch thời vụ đề ra và cơ bản gieo trồng hết diện tích; năng suất lúa và một số loại cây trồng khác tăng. Hoạt động chăn nuôi gặp khó khăn do giá thức ăn tăng cao. Sản xuất thủy sản phát triển ổn định, nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản tăng, ngư dân nỗ lực đẩy mạnh ra khơi, nên sản lượng khai thác thủy sản tăng khá. Ước tính giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 (theo giá so sánh năm 2010) đạt 5.182,5 tỷ đồng, tăng 2,85% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 3.495,7 tỷ đồng, tăng 1,83%; ngành lâm nghiệp đạt 289,0 tỷ đồng, tăng 2,76%; ngành thủy sản đạt 1.397,8 tỷ đồng, tăng 5,51% so với cùng kỳ năm trước.

a) Nông nghiệp

- Trồng trọt

+ Sản xuất cây hàng năm

Vụ Đông Xuân 2022-2023 triển khai trong điều kiện thời tiết thuận lợi, nên công tác gieo trồng các loại cây hàng năm thực hiện đúng tiến độ và cơ bản gieo trồng hết diện tích. Tuy nhiên, ngày 08/5/2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra mưa lớn kèm dông lốc làm đổ ngã 5.378 ha lúa, gây ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng lúa vụ Đông Xuân.

Ước tính diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân 2023 thực hiện 54.432,7 ha, tăng 0,2% so với vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó: cây lúa 29.385,7 ha, giảm 0,2%; cây ngô 4.006 ha, tăng 2,2%; cây khoai lang 2.490 ha, giảm 2,4%; cây lạc 3.420 ha, giảm 1,3%; rau các loại 4.320,9 ha, tăng 1,7%; đậu các loại 510,8 ha, tăng 2,3% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Năng suất một số cây trồng chủ yếu: Cây lúa đạt 60,21 tạ/ha, tăng 1,4%; cây ngô đạt 60,9 tạ/ha, giảm 0,2%; cây khoai lang đạt 80,52 tạ/ha, giảm 0,04%; cây lạc đạt 25,0 tạ/ha, tăng 2,0%; rau các loại đạt 105,49 tạ/ha, tăng 11,1%; đậu các loại đạt 10,33 tạ/ha, tăng 16,6% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân năm 2023 đạt 201.534,8 tấn, tăng 1,1% so với vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó: Sản lượng lúa đạt 176.930,8 tấn, tăng 1,2%; sản lượng lương thực khác 24.604 tấn, tăng 0,1%.

+ Sản xuất cây lâu năm

Thời tiết tương đối thuận lợi tạo điều kiện tốt cho quá trình sinh trưởng và phát triển cây lâu năm; sản xuất cây lâu năm được phục hồi và phát triển. Diện tích cây lâu năm tăng khá và có sự chuyển dịch theo hướng mở rộng diện tích loại cây có thị trường tiêu thụ ổn định, hiệu quả kinh tế cao.

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có 17.876,9 ha, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cây ăn quả 4.249,3 ha, tăng 1,6%; cây hồ tiêu 1.030 ha, tăng 1,0%; cây cao su 12.100 ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 6 tháng đầu năm sản lượng mủ cao su khai thác 3.192 tấn, tăng 3,0%; hồ tiêu 970 tấn, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước.

- Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi 6 tháng đầu năm có nhiều khó khăn, số lượng trâu, bò giảm do chi phí sản xuất tăng, giá thịt hơi giảm, đồng cỏ chăn thả ngày càng bị thu hẹp. Bên cạnh đó, nhờ sự quan tâm chú trọng công tác phòng trừ dịch bệnh nên đàn lợn đã và đang phục hồi lại sau khi dịch tả lợn châu Phi cơ bản được khống chế; đàn gia cầm phát triển tốt, không có dịch bệnh lớn xảy ra, sản lượng xuất chuồng tăng cao.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm đạt 45.094,0 tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu 950 tấn, giảm 0,2%; thịt bò 4.710 tấn, tăng 0,5%; thịt lợn 25.680 tấn, tăng 2,6%; thịt gia cầm 13.754 tấn, tăng 6,4% (riêng thịt gà 10.500 tấn, tăng 7,3%) so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính tổng đàn tại thời điểm 30/6/2023: Đàn trâu hiện có 31.695 con, giảm 0,1%; đàn bò 95.209 con, giảm 1,8%; đàn lợn 245.844 con, tăng 0,7%; đàn gia cầm hiện có 5,7 triệu con, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước.

b) Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp sáu tháng đầu năm 2023 các địa phương tập trung chủ yếu vào việc trồng rừng tập trung, chăm sóc, trồng dặm, trồng bổ sung và triển khai trồng cây phân tán; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng và tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân, tổ chức tập huấn công tác phòng chống cháy rừng trước khi bước vào mùa nắng nóng.

Ước tính 6 tháng đầu năm 2023: Diện tích rừng trồng mới thực hiện 3.610 ha, tăng 1,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 222.110 m3, tăng 2,1%; sản lượng củi khai thác đạt 139.189 ste, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước.

Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh chưa xảy ra cháy rừng.

c) Thuỷ sản

Sản xuất thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2023 đạt kết quả khả quan. Hoạt động khai thác thuỷ sản được tăng cường, thời tiết thuận lợi, bà con ngư dân nỗ lực ra khơi bám biển, số ngày hoạt động nhiều hơn. Nuôi trồng thủy sản được đa dạng hóa về sản phẩm, không có dịch bệnh xảy ra; các địa phương đã triển khai công tác củng cố đê bao, nạo vét xử lý ao hồ, tiến hành thả giống nuôi vụ mới.

Ước tính sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm đạt 45.778,1 tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng khai thác đạt 41.385,4 tấn, tăng 5,0%; sản lượng nuôi trồng đạt 4.392,7 tấn, tăng 2,6%.

Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 6 tháng đầu năm ước đạt 5.381,6 ha, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Số lượng tàu, thuyền khai thác hải sản có động cơ là 5.474 chiếc, tăng 0,2%, tổng công suất là 740.917 CV, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước.

3. Về sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp và bất ổn. Một số ngành như: sản xuất trang phục, chế biến gỗ không có đơn hàng mới, chi phí vật liệu tăng cao, cộng với những khó khăn về thị trường, đơn hàng xuất khẩu giảm đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của DN. Tuy nhiên, một số lĩnh vực như sản xuất chế biến thực phẩm, sản xuất và phân phối điện; sản xuất hóa chất tăng khá so với cùng kỳ năm trước giúp cho ngành công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 3,3%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 17,3%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 (theo giá so sánh 2010) đạt 7.861,0 tỷ đồng, tăng 7,45% so với cùng kỳ năm trước. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước: Quặng titan đạt 20.645 tấn, giảm 49,5%; đá xây dựng đạt 1.572.180 m3, giảm 3,6%; cao lanh đạt 39.381 tấn, tăng 29,1%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 11.586 tấn, tăng 6,6%; bia đóng chai đạt 1.049 nghìn lít, giảm 0,8%; nước khoáng đạt 822 nghìn lít, giảm 9,4%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 2.667 nghìn cái, giảm 27,7%; áo sơ mi đạt 5.427 nghìn cái, giảm 19,1%; dăm gỗ đạt 183.050 tấn, giảm 15,5%; ván ép từ gỗ đạt 16.466 m3, giảm 59,0%; cao su tổng hợp đạt 520 tấn, tăng 31,6%; kính cường lực đạt 1.429 tấn, tăng 11,6%; clinker thành phẩm đạt 1.265.133 tấn, giảm 17,3%; xi măng đạt 785.947 tấn, tăng 5,3%; điện gió đạt 282,0 triệu kwh, tăng 18,5%; điện thương phẩm đạt 517 triệu kwh, tăng 1,4%. 

4. Về hoạt động của doanh nghiệp

Trong 6 tháng đầu năm 2023, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, nhiều DN phải tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể. Bên cạnh đó, số DN thành lập mới gia nhập thị trường và số DN tạm ngừng quay trở lại hoạt động đều giảm so với cùng kỳ năm 2022.

Tính từ đầu năm đến ngày 15/06/2023: Tổng số DN thành lập mới là 283 DN, giảm 26,7% so với cùng kỳ năm trước; tổng số vốn đăng ký đạt 3.040,6 tỷ đồng, giảm 2,3%; số DN quay trở lại hoạt động là 122 DN, giảm 4,7%; tổng số DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn 208 DN, tăng 3,5%; số DN hoàn tất thủ tục giải thể là 11 DN, giảm 47,6% so với cùng kỳ năm trước.

5. Về đầu tư và xây dựng

Hoạt động đầu tư xây dựng, ngay từ đầu năm 2023 đã khởi công nhiều dự án lớn, đặc biệt là dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đoạn qua tỉnh Quảng Bình. Bên cạnh đó, các dự án phát triển khu nghỉ dưỡng, khu nhà ở thương mại, khu đô thị trên địa bàn tỉnh cũng đang tiếp tục được các chủ đầu tư, đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương trong 6 tháng đầu năm 2023.

Vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2023 đạt 12.950,2 tỷ đồng, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước đạt 2.752,2 tỷ đồng, tăng 10,8%; khu vực ngoài nhà nước đạt 10.124,4 tỷ đồng, tăng 4,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 73,6 tỷ đồng, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước.

6. Về hoạt động thương mại, dịch vụ

- Tổng mức bán lẻ hàng hóa

Hoạt động thương mại trên địa bàn tiếp tục phát triển, thị trường giá cả ổn định, cân đối cung cầu các loại vật tư quan trọng và hàng tiêu dùng thiết yếu được đảm bảo. Cùng với đó, khách đến tham quan, nghỉ dưỡng tăng cao đẩy mạnh chi tiêu trên địa bàn nên tổng mức bán lẻ hàng hoá tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hoá 6 tháng đầu năm 2023 đạt 23.232,9 tỷ đồng, tăng 13,2% so với cùng kỳ (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,3%), trong đó hầu hết nhóm hàng thiết yếu đều tăng cao trên 10% như: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 17,2%, gỗ và vật liệu xây dựng tăng 11,1%; hàng may mặc tăng 16,9%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 12,3%. Chỉ có nhóm ô tô các loại và nhóm phương tiện đi lại giảm do các mặt hàng này có giá trị cao, trong khi người tiêu dùng đang có xu hướng cắt giảm chi tiêu các mặt hàng không thiết yếu.

- Hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành

Sau thời gian dịch COVID-19 diễn ra làm ảnh hưởng đến sự phát triển KTXH của tỉnh, việc mở cửa hoàn toàn du lịch với những nỗ lực, quyết tâm của các ngành, các cấp triển khai các nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động du lịch đã đưa du lịch Quảng Bình phục hồi nhanh và phát triển mạnh mẽ. Kết quả hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 6 tháng đầu năm 2023 tăng trưởng với tốc độ tăng cao so với năm trước.

- Dịch vụ lưu trú: Doanh thu lưu trú đạt 239,0 tỷ đồng, tăng 45,1%; Số lượt khách lưu trú 6 tháng năm 2023 ước đạt 746.088 lượt khách, tăng 53,8% so với cùng kỳ, trong đó số lượt khách quốc tế ngủ qua đêm đạt 54.320 lượt khách, gấp 7,2 lần so với cùng kỳ.

- Dịch vụ ăn uống: Doanh thu ăn uống đạt 1.946,8 tỷ đồng, tăng 24,2% so với cùng kỳ.

- Du lịch lữ hành: Doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành doanh thu du lịch lữ hành đạt 209,2 tỷ đồng, tăng 75,6% so với cùng kỳ. Số lượt khách du lịch lữ hành 6 tháng năm 2023 ước đạt 338.913 lượt khách, tăng 104,9% so với cùng kỳ, trong đó số lượt khách quốc tế đạt 46.808 lượt khách, gấp 6,7 lần so với cùng kỳ.

- Dịch vụ khác

Cùng với sự phục hồi nhanh của ngành du lịch, doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ đều tăng do nhu cầu tiêu dùng, vui chơi, giải trí, làm đẹp,... của người dân tăng trong và ngoài tỉnh tăng cao. Doanh thu dịch vụ khác 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 1.049,9 tỷ đồng, giảm 3,1% so với cùng kỳ. Riêng nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm mạnh (-38,3%), đã làm giảm 5,7 điểm phần trăm trong tổng số giảm chung của nhóm các ngành dịch vụ khác.

- Vận tải, viễn thông

Vận tải: Sau giai đoạn ngưng trệ vì ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, hoạt động vận tải đã và đang sự phục hồi mạnh mẽ ngay từ đầu năm 2023, các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đặc biệt là sự khởi sắc của ngành du lịch. Bên cạnh đó, ngành Giao thông vận tải đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hỗ trợ vận tải không ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

Tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 2.677,0 tỷ đồng, tăng 20,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải hành khách đạt 436,2 tỷ đồng, tăng 16,8%; vận tải hàng hóa đạt 2.020,4 tỷ đồng, tăng 21,2%.

Số lượng hành khách vận chuyển 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 17,0 triệu hành khách, tăng 18,9%; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 765,0 triệu hành khách.km, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 17,1 triệu tấn, tăng 22,8%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 1.186,7 triệu tấn.km, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước.

Viễn thông: Ước tính 6 tháng đầu năm 2023, tổng số thuê bao Internet toàn tỉnh đạt 161 ngàn thuê bao, tăng 5,2%; doanh thu hoạt động viễn thông đạt 480 tỷ đồng, tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước.

7. Về tài chính, tín dụng

- Tài chính

Tổng thu ngân sách ước thực hiện 6 tháng đầu năm tại địa bàn đạt 2.580 tỷ đồng, bằng 41,9% so với dự toán Trung ương giao; bằng 36,8% dự toán địa phương giao và bằng 50,9% với thực hiện cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thu cân đối ngân sách đạt 2.407 tỷ đồng, bằng 37,0% dự toán địa phương giao, bằng 48,7% so với cùng kỳ năm trước; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt 173,5 tỷ đồng, bằng 65,4% so với dự toán trung ương giao, bằng 34,7% dự toán địa phương giao tăng 35% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm 2023 ước tính đạt 7.233,8 tỷ đồng, tăng 22,2% so với cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 3.717,6 tỷ đồng, tăng 28,4%; chi thường xuyên ước tính đạt 3.512,9 tỷ đồng, tăng 16,1% so với cùng kỳ.

- Tín dụng

Các tổ chức tín dụng tiếp tục triển khai thực hiện các chỉ đạo, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, trong đó tập trung triển khai chính sách tín dụng tại Chương trình phục hồi và phát triển KTXH theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ.

Ước tính đến 30/6/2023, tổng nguồn vốn huy động đạt 59.760 tỷ đồng, tăng 7,0% so với đầu năm, tăng 9,8% so với cùng kỳ; ước tính đến 30/6/2023, dư nợ đạt 81.200 tỷ đồng, tăng 3,0% so với đầu năm, tăng 6,4% so với cùng kỳ. [2]

8. Một số lĩnh vực xã hội

a) Về lao động và việc làm

Thị trường lao động việc làm của tỉnh Quảng Bình 6 tháng năm 2023 đã dần phục hồi trở lại. Lực lượng lao động, số người có việc làm 6 tháng năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt lao động trong ngành dịch vụ tăng đáng kể. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động đều giảm so với cùng kỳ năm trước.

Từ đầu năm đến nay, Trung tâm Dịch vụ việc làm đã tổ chức 23 phiên giao dịch việc làm; có 13.096 lượt người lao động được tư vấn về việc làm, học nghề, bảo hiểm thất nghiệp, hợp đồng lao động, các chế độ chính sách về lao động; giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng cho 1.842 người; hỗ trợ học nghề cho 56 người; tiếp nhận và tổ chức đào tạo cho 452 học viên.

b) Về đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Trong 6 tháng đầu năm 2023, đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đặc biệt là người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội được cải thiện và nâng lên rõ rệt, bảo đảm điều kiện để người dân, đối tượng chính sách tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin và truyền thông, góp phần nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.

Công tác an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai tích cực, trong đó ưu tiên vào các đối tượng người cao tuổi, người nghèo, bảo trợ xã hội, người có hoàn cảnh khó khăn. Sáu tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh đã tặng tiền và quà cho các đối tượng ưu đãi là người có công, thân nhân người có công với cách mạng 19,1 tỷ đồng; trị giá tiền, quà thăm hỏi và hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là 16,7 tỷ đồng.

c) Về giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao

- Giáo dục

Thời điểm hiện nay, ngành Giáo dục cơ bản hoàn thành kế hoạch nhiệm vụ trọng tâm năm học 2022 - 2023; các cơ sở giáo dục kết thúc năm học, bàn giao học sinh các cấp về nghỉ hè năm 2023 theo quy định. Triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, hướng dẫn các cơ sở giáo dục về công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp, tổ chức Kỳ thi vào lớp 10 các trường THPT năm học 2023 - 2024 nghiêm túc, an toàn, đúng quy chế. Đang gấp rút chuẩn bị các điều kiện để tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023. Xây dựng kịch bản thi phù hợp với thực tiễn, bảo đảm an toàn, phòng chống dịch tại các địa phương trong tỉnh.

- Y tế

Trong 6 tháng đầu năm 2023, hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn về khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng tiến độ. Ngành Y tế duy trì và phát huy tốt hoạt động khám chữa bệnh tại các tuyến, đặc biệt là bệnh viện tuyến huyện. Công tác phòng chống dịch bệnh có nhiều chuyển biến tích cực và đã được kiểm soát tốt. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng và mang lại hiệu quả cao.

Dịch bệnh: Năm tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 121 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 07 trường hợp Tay - chân - miệng; 18 trường hợp lao phổi; 02 trường hợp sốt rét; 01 trường hợp thương hàn; 03 trường hợp viêm gan vi rút B; 2557 trường hợp cúm; 01 trường hợp lỵ amít; 07 trường hợp lỵ trực tràng; 07 trường hợp quai bị; 338 trường hợp thủy đậu; 739 trường hợp tiêu chảy; 08 trường hợp viêm gan virut khác; 24 trường hợp bệnh không thuộc danh mục.

Theo báo cáo của Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, tính đến thời điểm 6h00 ngày 16/6/2023, toàn tỉnh có 2.049.063 liều vắc xin đã được tiêm. Số ca mắc COVID-19 cộng dồn từ đầu năm đến 06h00 ngày 16/6/2023 là 972 ca. Số ca tử vong cộng dồn: 0.

Tình hình sốt rét: Năm tháng đầu năm 2023, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 70 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 2 người; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 13.694 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,01%.

Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Năm tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh phát hiện 7 người nhiễm mới HIV, 2 người chuyển sang AIDS. Tính đến ngày 31/05/2022, lũy tích nội tỉnh số người nhiễm HIV là 477 người; số bệnh nhân AIDS là 408 người; số bệnh nhân tử vong là 142 người.

Tình hình ngộ độc thực phẩm: Năm tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm ở xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy với 03 ca mắc, các bệnh nhân đã được nhập viện điều trị kịp thời nên không có tử vong, ngoài ra còn có 67 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ

- Văn hóa thể thao

Hoạt động văn hoá sáu tháng đầu năm 2023 với các hoạt động chào mừng năm mới 2023; Tết Nguyên đán Quý Mão và các ngày lễ lớn của đất nước đã tạo không khí vui tươi trong Nhân dân. Trong đó, nổi bật chương trình “Chào đón năm mới Phong Nha Countdown Party 2023”, tổ chức tốt các hoạt động Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên (01/3/1923 - 01/3/2023); kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943-2023).

Thể thao phong trào nổi bật như: Tổ chức Lễ phát động Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” và Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân tỉnh Quảng Bình năm 2023. Phối hợp các sở, ngành, địa phương tổ chức nhiều hội thao, hội thi như: Hội thao Ngành Công an; giải Bóng đá Nam thanh niên của Tỉnh đoàn; phối hợp với Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức giải Bóng chuyền CNVC-LĐ năm 2023,…

Thể thao thành tích cao trong sáu tháng đầu năm 2023 đã đạt được những thành tựu nổi bật, trong đó tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á năm 2023, 3 vận động viên của thể thao Quảng Bình đã xuất sắc đoạt 8 huy chương. Trong đó có 5 huy chương vàng, 1 huy chương bạc và 2 huy chương đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao giành được 118 huy chương các loại, trong đó có 8 huy chương quốc tế.

d) Về tai nạn giao thông

Lũy kế 6 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 49 vụ tai nạn giao thông, giảm 03 vụ so với cùng kỳ, trong đó đường bộ 48 vụ, giảm 04 vụ so với cùng kỳ; đường sắt 01 vụ tăng 01 vụ so với cùng kỳ, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 24 người, giảm 09 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 23 người, giảm 10 người so với cùng kỳ; đường sắt 01 người tăng 01 người so với cùng kỳ, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 43 người, bằng cùng kỳ, trong đó đường bộ bị thương 43 người, bằng cùng kỳ; đường sắt, đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ năm 2022.

đ) Về thiệt hại do thiên tai và phòng chống cháy nổ

- Thiệt hại do thiên tai: Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ thiên tai làm 1 người chết; gãy đổ 5.378 ha lúa; ước tính tổng giá trị thiệt hại 50.150 triệu đồng, giảm 3,35 lần so với cùng kỳ năm 2022.

- Công tác phòng chống cháy nổ: Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 7 vụ cháy với giá trị thiệt hại 2.101,5 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ cháy tăng 3 vụ, giá trị thiệt hại tạm ước tăng 279,5 triệu đồng.

Khái quát lại, sáu tháng đầu năm 2023, KTXH của tỉnh đã đạt được những kết quả tích cực: GRDP tăng trưởng khá; sản xuất vụ Đông Xuân đạt kết quả khả quan, khai thác thủy sản được đẩy mạnh; sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao; du lịch phục hồi và tăng trưởng nhanh; môi trường đầu tư từng bước được cải thiện; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống người dân tiếp tục được cải thiện; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm,... Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều hạn chế: Kinh tế của tỉnh không có nhiều dư địa để duy trì mức tăng trưởng cao; hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế. Thu ngân sách chưa bền vững, các khoản thu từ đất chiếm tỷ trọng lớn; cơ cấu thu ngân sách chưa đồng đều giữa các khoản thu. Quy mô sản xuất của hầu hết các DN còn nhỏ; nhiều dự án đầu tư phát triển công nghiệp hiện nay đều chậm tiến độ so với chủ trương đầu tư được phê duyệt; cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn hạn chế, nhất là các điểm mua sắm, vui chơi, giải trí,…

KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

Năm 2023 là năm có ý nghĩa hết sức quan trọng, là năm bản lề thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Trong thời gian tới, dự báo KTXH của tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Để hoàn thành tốt các chỉ tiêu KTXH năm 2023, Cục Thống kê đề xuất một số giải pháp sau đây:

Một là, tập trung chỉ đạo, triển khai kế hoạch sản xuất vụ Hè Thu đúng thời vụ, xây dựng phương án tưới, chống hạn, đảm bảo nước cho sản xuất Hè Thu. Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch bệnh; tổ chức giám sát, phát hiện sớm, kịp thời cảnh báo và xử lý triệt để các ổ dịch mới phát sinh, không để lây lan diện rộng. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, phòng chống thiên tai, cháy rừng; ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh nguồn nước,. Thực hiện các chính sách nhằm khuyến khích ngư dân khai thác hải sản vùng biển xa, tăng thời gian bám biển; tăng cường theo dõi, chỉ đạo công tác nuôi trồng thủy sản, áp dụng đúng quy trình nuôi và các quy định, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường để hạn chế dịch bệnh.

Hai là, tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp tập trung hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các DN, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án mới đầu tư đi vào sản xuất ổn định, khai thác tốt công suất thiết bị và hiệu quả đầu tư nhằm tạo bứt phá và động lực tăng trưởng mới; đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án công nghiệp lớn đang triển khai; tiếp tục kêu gọi các dự án phát triển công nghiệp có giá trị cao; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án hoàn thành đúng tiến độ, đặc biệt là các dự án quan trọng, trọng điểm, các dự án chuyển tiếp,...

Ba là, thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển thương mại, ưu tiên lựa chọn sử dụng hàng hóa và dịch vụ do các DN trong tỉnh sản xuất và cung cấp. Hỗ trợ các DN xây dựng thương hiệu đặc trưng cho các sản phẩm hàng hoá chủ lực của tỉnh. Tiếp tục theo dõi và thực hiện có hiệu quả các giải pháp bình ổn, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc. Tăng cường thực hiện hoạt động kích cầu du lịch, truyền thông, quảng bá và xúc tiến du lịch; xây dựng sản phẩm du lịch mới; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong du lịch; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành du lịch; đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, đảm bảo vệ sinh môi trường để phục vụ tốt nhất cho du khách.

Bốn, tiếp tục nâng cao hiệu quả sử dụng, khai thác tốt nguồn lực tài chính từ đất đai, tài nguyên. Quản lý, kiểm soát tình trạng tăng giá đất bất thường, minh bạch thông tin, hạn chế tình trạng đầu cơ đất đai, ngăn chặn hiện tượng tung tin đồn thổi, đầu cơ nhằm đẩy giá đất để trục lợi bất hợp pháp. Rà soát và kiên quyết thực hiện thu hồi đất đối với các trường hợp giao đất, cho thuê đất đã quá thời hạn quy định nhưng chưa triển khai hoặc chậm tiến độ. Tập trung giải quyết các vướng mắc về giải phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm của tỉnh.

Năm là, tiếp tục siết chặt kỷ luật tài chính - ngân sách nhà nước; tăng cường công tác quản lý thu, chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế và phát triển nguồn thu, tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính về thuế; rà soát, cắt giảm các loại thuế, phí, lệ phí phù hợp. Tổ chức điều hành dự toán ngân sách nhà nước chủ động, chặt chẽ, triệt để tiết kiệm các nội dung chi, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách. Nâng cao chất lượng tín dụng; ưu tiên tập trung cho vay phát triển, mở rộng sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh.

Sáu là, giữ vững thành quả phòng, chống dịch COVID-19, theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh, có phương án ứng phó hiệu quả với các tình huống dịch bệnh có thể xảy ra, nhất là nguy cơ “dịch chồng dịch”. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới y tế dự phòng và y tế cơ sở, chủ động phòng, chống dịch bệnh.

Bảy là, tiếp tục củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; tăng cường công tác quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới, kết hợp hài hòa giữa phát triển KTXH với quốc phòng, an ninh. Quyết liệt, kiên quyết trấn áp, triệt phá tội phạm ma túy, tội phạm hình sự nghiêm trọng, tội phạm tín dụng đen, tội phạm công nghệ cao,... Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, đảm bảo an toàn phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; triển khai các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và phấn đấu kiềm chế, làm giảm tai nạn giao thông; tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi, an toàn cho các DN, người dân an tâm sản xuất, kinh doanh./.

[1] Nguồn: Công văn số 860/TCTK-TKQG ngày 29/5/2023 của Tổng cục Thống kê về việc thông báo số liệu GRDP ước tính quý II và 6 tháng đầu năm 2023.

[2] Nguồn: Báo cáo số 451/BC-QUB ngày 15/6/2023 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh Quảng Bình.

[Trở về]