THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và năm 2023 

Tỉnh Quảng Bình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) năm 2023 với những thuận lợi, khó khăn đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine, Israel và Hamas hết sức phức tạp, bất ổn địa chính trị, thiên tai, biến đổi khí hậu,… ngày càng gia tăng; chính sách tiền tệ thắt chặt, nợ công thế giới đã tăng lên mức kỷ lục, tăng trưởng kinh tế thế giới có xu hướng chậm lại. Kinh tế trong nước vẫn còn nhiều khó khăn: Sức ép lạm phát; lãi suất gia tăng; giá nhiều yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh cao,… Trong tỉnh, giá xăng, dầu, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao; tiềm lực kinh tế của tỉnh hạn chế; nhiều doanh nghiệp vẫn chưa hồi phục sau thời gian dài bị tác động của dịch COVID-19,… Bên cạnh khó khăn, có những thuận lợi: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, quyết liệt, sát sao chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; nền kinh tế trên đà phục hồi, ổn định và đạt kết quả tích cực; thời tiết cơ bản thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, trong năm không có các cơn bão, lụt lớn; các ngành dịch vụ, đặc biệt là ngành du lịch phục hồi và phát triển mạnh mẽ; môi trường đầu tư kinh doanh cải thiện góp phần tích cực cho phục hồi và phát triển KT-XH, tạo được sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp,...
Xác định năm 2023 có ý nghĩa hết sức quan trọng, là năm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2021 - 2025; trong bối cảnh có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen, Tỉnh ủy, HĐND, UBND đã chỉ đạo các sở, ngành, đơn vị, địa phương tiếp tục triển khai quyết liệt Kế hoạch hành động số 26/KH-UBND ngày 06/01/2023 của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ và các Nghị quyết của HĐND tỉnh về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH và Dự toán NSNN năm 2023. 
Nhờ đó, tình hình KT-XH quý IV và cả năm 2023 của tỉnh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: Sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá, năng suất và sản lượng lúa tăng so với năm trước; sản xuất công nghiệp duy trì tăng trưởng; các ngành dịch vụ tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực; công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân, an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm, cải thiện; tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo.

Kết quả đạt được trên các lĩnh vực KT-XH trong quý IV và cả năm 2023 như sau:

Một số chỉ tiêu chủ yếu ước tính thực hiện năm 2023:

1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) đạt 7,20% (Nghị quyết HĐND tăng 7,0 - 7,5%; năm 2022 tăng 7,39%); trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,82%, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 10,63% (trong đó: công nghiệp tăng 8,15%), khu vực dịch vụ tăng 6,97%;

2. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,79% (Nghị quyết HĐND tăng 3,5 - 4,0%; năm 2022 tăng 2,58%);

3. Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng 10,66% (năm 2022 tăng 10,82%); trong đó: công nghiệp tăng 7,63% (Nghị quyết HĐND tăng 8,5 - 9,0%; năm 2022 tăng 12,00%), xây dựng tăng 13,99% (năm 2022 tăng 9,51%);

4. Giá trị sản xuất dịch vụ tăng 7,18% (Nghị quyết HĐND tăng 6,5 - 7,0%; năm 2022 tăng 8,02%);

5. Cơ cấu GRDP: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 19,14%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 30,85% (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); khu vực dịch vụ chiếm 50,01% (Nghị quyết HĐND: Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 20,0%; công nghiệp - xây dựng chiếm 30,9%; dịch vụ chiếm 49,1%);

6. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 5.703 tỷ đồng (Nghị quyết HĐND 7.000 tỷ đồng);

7. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội đạt 29.600 tỷ đồng (Nghị quyết HĐND 28.500 tỷ đồng);

8. GRDP bình quân đầu người đạt 60 triệu đồng (Nghị quyết HĐND 60 - 61 triệu đồng);

9. Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 73% (Nghị quyết HĐND 73%);

10. Giải quyết việc làm cho 20.360 lao động (Nghị quyết HĐND 18.500 lao động);

11. Tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,83% (Nghị quyết HĐND giảm 0,8%);

12. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 52,9% (Nghị quyết HĐND đạt 56,8%);

13. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế 98,7% (Nghị quyết HĐND trên 92%) (theo chuẩn mới);

14. Số giường bệnh bình quân trên 1 vạn dân đạt 36,6 giường (Nghị quyết HĐND 36,6 giường);

15. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 92,5% (Nghị quyết HĐND trên 92%);

16. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 68,9% (Nghị quyết HĐND 68,7%); trong đó lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 29,8% (Nghị quyết HĐND 29,5%);

17. Tỷ lệ dân số thành thị được sử dụng nước sạch đạt 97,2% (Nghị quyết HĐND 97,2%);

18. Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch và hợp vệ sinh đạt 98% (Nghị quyết HĐND 98%);

19. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 68,69% (Nghị quyết HĐND 68%);

20. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý đạt 83% (Nghị quyết HĐND 79%); Tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100% (Nghị quyết HĐND 100%).

I. KINH TẾ

1. Tăng trưởng kinh tế

Năm 2023, nền kinh tế của tỉnh ta trên đà phục hồi, ổn định và đạt kết quả tích cực; khu vực công nghiệp - xây dựng phát triển ổn định và đạt tăng trưởng khá nhờ một số ngành công nghiệp có nhiều đơn hàng để sản xuất, các dự án đầu tư xây dựng được triển khai và đẩy mạnh tiến độ; các ngành dịch vụ, đặc biệt là ngành du lịch phục hồi và phát triển mạnh. Do đó, tăng trưởng kinh tế của tỉnh năm 2023 đạt tốc độ khá cao.

Ước tính tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2023 tăng 7,20% so với năm 2022. Trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,82%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,63%, đóng góp 2,88 điểm phần trăm (công nghiệp tăng 8,15%, đóng góp 1,02 điểm phần trăm; xây dựng tăng 12,79%, đóng góp 1,86 điểm phần trăm); khu vực dịch vụ tăng 6,97%, đóng góp 3,56 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 7,0%, đóng góp 0,24 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của tỉnh. Đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế năm 2023 là của khu vực dịch vụ; tiếp đến là khu vực công nghiệp - xây dựng.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (%)

 

Cơ cấu GRDP: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 19,14%, giảm 0,99 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 30,85% (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm), tăng 0,44 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 50,01%, tăng 0,55 điểm phần trăm so với năm 2022.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2023 trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi; mặc dù vẫn còn khó khăn do giá xăng dầu, vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao,… nhưng ngành Nông nghiệp đã chỉ đạo các địa phương bám sát khung lịch thời vụ, tăng cường công tác dự báo, phòng chống dịch bệnh nên hoạt động trồng trọt đạt kết quả tích cực; năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu tăng so với năm trước. Đối với sản xuất thuỷ sản, nhu cầu tiêu thụ tăng, dịch bệnh xảy ra không đáng kể nên kết quả khai thác và nuôi trồng thuỷ sản tăng khá so với năm trước. Đó là những nguyên nhân cơ bản làm tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 2,82%, cao hơn so với năm 2022.

Khu vực công nghiệp - xây dựng: Sản xuất công nghiệp năm 2023 đạt tốc độ tăng trưởng 8,15% nhờ một số doanh nghiệp sản xuất chế biến thực phẩm; sản xuất đồ uống; sản xuất giấy; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn đã có các đơn hàng được ký kết nên sản xuất tăng khá so với năm trước, góp phần làm cho ngành công nghiệp duy trì tăng trưởng. Tuy nhiên, tốc độ tăng tưởng ngành công nghiệp năm 2023 vẫn thấp hơn tốc độ tăng của năm 2022, do nhu cầu thị trường vẫn chưa được phục hồi; nhu cầu tiêu dùng giảm sút trong khi sản lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp tăng cao; mặt khác do năm trước, các Cụm trang trại điện gió B&T được vận hành, đem lại giá trị đáng kể. Bên cạnh đó, ngành xây dựng với nhiều dự án/công trình lớn đang được triển khai thực hiện và đẩy nhanh tiến độ nên có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào mức tăng trưởng của khu vực công nghiệp - xây dựng cũng như toàn nền kinh tế của tỉnh. Ước tính năm 2023, tăng trưởng ngành xây dựng đạt 12,79%. Tính chung khu vực công nghiệp - xây dựng năm 2023 tăng 10,63% so với năm 2022.

Khu vực dịch vụ: Năm 2023 tiếp tục ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ của ngành du lịch. Lượng khách quốc tế, trong nước và doanh thu lữ hành, dịch vụ du lịch tăng cao khẳng định tính đúng đắn trong chủ trương đẩy mạnh phát triển du lịch sau khi khống chế được dịch COVID-19. Ngành du lịch phục hồi nhanh, nhờ đó, các ngành dịch vụ liên quan đến du lịch, như: Bán lẻ hàng hoá, dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận tải, dịch vụ lao động, cho thuê phương tiện đi lại, vui chơi, giải trí và các dịch vụ khác,... tăng trưởng mạnh. Khu vực dịch vụ năm 2023 ước tính tăng 6,97% so với năm 2022.

2. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Năm 2023, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản gặp một số khó khăn do dịch bệnh, giá vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi tăng cao,... tuy nhiên, được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Tỉnh ủy, HĐND, UBND cùng với sự nỗ lực của nông dân, doanh nghiệp nên sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cơ bản ổn định và đạt được những kết quả tích cực, cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp tiếp tục chuyển dịch đúng hướng.

Ước tính giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2023 (theo giá so sánh năm 2010) đạt 10.036,3 tỷ đồng, tăng 2,79% so với năm trước. Trong đó: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 6.124,8 tỷ đồng, tăng 2,27%; giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp đạt 885,5 tỷ đồng, tăng 2,74%; giá trị sản xuất ngành thủy sản đạt 3.026,0 tỷ đồng, tăng 3,87% so với năm trước. Về cơ cấu: Nông nghiệp chiếm 61,03%; Lâm nghiệp chiếm 8,82% và Thủy sản chiếm 30,15%.

2.1. Nông nghiệp

a) Trồng trọt

* Cây hàng năm

Nhìn chung, tình hình sản xuất cây hàng năm 2023 gặp nhiều khó khăn do tình hình sâu bệnh, chuột phá hoại; giá nguyên, vật liệu đầu vào, chi phí làm đất tăng cao nên diện tích gieo trồng có giảm hơn so với năm trước. Nhưng nhờ sự quan tâm, phối hợp của các Sở, ngành, đơn vị, địa phương cùng với sự nỗ lực của bà con nông dân, nên kết thúc gieo trồng các Vụ đều đúng lịch thời vụ, hầu hết các địa phương gieo trồng hết diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng tăng so với năm trước.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm thực hiện 83.241,8 ha, giảm 0,8% so với năm trước. Trong đó: Diện tích vụ Đông Xuân 47.072,6 ha, giảm 0,8%; diện tích vụ Hè Thu 35.898,2 ha, giảm 0,5%; diện tích vụ Mùa 271,0 ha, giảm 28,1% so với năm trước. Nguyên nhân, diện tích gieo trồng cây hàng năm giảm do giá cả các loại vật tư phân bón, giống, chi phí làm đất tăng cao, nên nhiều hộ bỏ ruộng hoang, một số nơi chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác đem lại thu nhập cao hơn như rau các loại, cây ăn quả,...; bên cạnh đó, một số diện tích đất bị thu hồi do các dự án của Nhà nước triển khai giải phóng mặt bằng.

Hình 1. Sản xuất cây hàng năm năm 2023


Diện tích gieo trồng một số cây trồng chủ yếu cả năm: Cây lúa 52.952,5 ha, giảm 0,1% (trong đó: Vụ Đông Xuân 29.375,0 ha, giảm 0,2%; vụ Hè Thu 23.306,5 ha, tăng 0,4%; vụ Mùa 271,0 ha, giảm 28,1%); ngô 4.500,1 ha, tăng 1,0%; khoai lang 2.707,9 ha, giảm 9,5%; sắn 6.698,5 ha, giảm 0,4%; lạc 3.415,0 ha, giảm 13,1%; rau các loại 6.296,2 ha, tăng 4,9%; đậu các loại 1.279,4 ha, giảm 8,8% so với năm trước.

Năng suất gieo trồng một số cây trồng cả năm: Cây lúa đạt 53,15 tạ/ha, tăng 4,2% (trong đó: Vụ Đông Xuân đạt 62,51 tạ/ha, tăng 5,3%; vụ Hè Thu đạt 41,81 tạ/ha, tăng 1,8%; vụ Mùa đạt 13,78 tạ/ha, tăng 13,4%); ngô đạt 59,36 tạ/ha, giảm 0,2%; khoai lang đạt 77,67 tạ/ha, tăng 0,4%; sắn đạt 178,94 tạ/ha, giảm 3,8%; lạc đạt 23,64 tạ/ha, giảm 0,6%; rau các loại đạt 104,49 tạ/ha, tăng 10,9%; đậu các loại đạt 9,08 tạ/ha, tăng 1,8% so với năm trước.

Sản lượng lương thực năm 2023 đạt 308.416,3 tấn, tăng 3,8% so với năm trước. Trong đó: Sản lượng lúa đạt 281.434,7 tấn, tăng 4,0%; cây ngô đạt 26.714,1 tấn, tăng 0,7%; sản lượng kê đạt 267,5 tấn, tăng 23,9% so với năm trước. Sản lượng một số cây trồng khác: Khoai lang đạt 21.031,6 tấn, giảm 9,2%; cây sắn đạt 119.865,0 tấn, giảm 4,1%; cây lạc đạt 8.071,6 tấn, giảm 13,6%; rau các loại đạt 65.792,2 tấn, tăng 16,3%; đậu các loại đạt 1.161,2 tấn, giảm 7,1% so với năm trước.

* Cây lâu năm

Nhìn chung, diện tích các loại cây lâu năm có xu hướng giảm do một số diện tích cây hồ tiêu bị bệnh vàng lá chết chậm nên nhiều hộ đã chặt bỏ, chưa trồng lại; giải tỏa phục vụ xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc Nam nên nhiều diện tích cây lâu năm khác bị chặt bỏ.

Ước tính diện tích cây lâu năm thực hiện 17.592,0 ha, giảm 1,2% so với năm trước. Diện tích cây lâu năm chia theo các nhóm cây: Cây ăn quả 4.303,5 ha, tăng 2,7%; cây lấy quả chứa dầu 51,8 ha, giảm 1,2%; cây hồ tiêu 936,0 ha, giảm 11,2%; cây cao su 11.908,5 ha, giảm 1,5%; cây chè 197,9 ha, tăng 12,3%; cây gia vị, cây dược liệu 69,9 ha, giảm 30,1%; cây lâu năm khác 124,3 ha, giảm 17,5% so với năm trước.

Năng suất một số cây lâu năm chủ yếu: Cao su 8,89 tạ/ha, tăng 2,3%; hồ tiêu 10,73 tạ/ha, giảm 2,7%; cây dừa 50,2 tạ/ha, tăng 9,4%; cây vải 43,11 tạ/ha, tăng 1,2%; cây nhãn 34,21 tạ/ha, tăng 5,0%; xoài 37,49 tạ/ha, tăng 1,1%; chuối 100,00 tạ/ha, giảm 5,7%; dứa 72,83 tạ/ha, tăng 0,3%; ổi 73,44 tạ/ha, giảm 1,2%; cam 46,23 tạ/ha, tăng 0,6%; quýt 41,67 tạ/ha, tăng 7,7%; chanh 49,28 tạ/ha, tăng 0,3%; bưởi 58,47 tạ/ha, giảm 0,8% so với năm trước. Năm nay, điều kiện thời tiết khá thuận lợi nên năng suất một số loại cây lâu năm khá ổn định.

Thời tiết năm nay thuận lợi, không có bão, ít sâu bệnh nên sản lượng một số cây trồng đạt khá, cụ thể một số cây trồng chính như sau: Cao su 8.013,2 tấn, tăng 8,8%; hồ tiêu 924,0 tấn, giảm 9,1%; xoài 341,8 tấn, tăng 2,1%; chuối 15.526,4 tấn, giảm 6,6%; dứa 1.070,2 tấn, tăng 0,7%; ổi 2.381,3 tấn, tăng 5,9%; cam 1.198,6 tấn, tăng 8,3%; quýt 261,4 tấn, giảm 22,3%; chanh 771,3 tấn, giảm 2,3%; bưởi 1.624,8 tấn, tăng 20,3% so với năm trước.

* Sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024

Hiện nay, các đơn vị đang khẩn trương tiến hành cày ải, chuẩn bị các điều kiện sẵn sàng cho gieo trồng vụ Đông xuân 2023 - 2024. Theo đó, ước tính đến ngày 30/12, diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân thực hiện 10.096,1 ha, giảm 12,2% so với vụ Đông Xuân năm trước. Cụ thể diện tích gieo trồng một số cây thực hiện như sau: Cây ngô 817,0 ha, giảm 9,1%; cây khoai lang 1.151,1 ha, giảm 0,9%; cây sắn 905,0 ha, giảm 49,7%; cây khoai lang 1.151,1 ha, giảm 0,9%; cây lạc 152,0 ha, giảm 16,5%; cây rau các loại 1.862,6 ha, giảm 1,6%; cây đậu các loại 17,3 ha, tăng 1,2%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 66,5 ha, giảm 21,3%; cây hàng năm khác 420,2 ha, giảm 49,9% so với năm trước.

Lịch thời vụ xuống giống bắt đầu từ ngày 20/12/2023 - 30/01/2024. Thời tiết mưa nhiều nên nhiều xứ đồng đang ngập nước, bà con nông dân tranh thủ ra đồng tôn cao bờ vùng, bờ thửa, đắp chặn các kênh mương nội đồng, tháo nước để kịp thời làm đất phục vụ cho việc gieo cấy đảm bảo đúng lịch thời vụ, đồng thời tập trung diệt chuột và chuẩn bị giống, phân bón, bắt đầu tiến hành làm đất, cập nhật tình hình thời tiết để xuống giống thích hợp. Dự kiến khâu làm đất, cày ải kết thúc vào 15 - 20/12/2023.

b) Chăn nuôi

Năm 2023, sản xuất chăn nuôi có nhiều biến động, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng vẫn ổn định và tiếp tục có bước phát triển hơn so với năm trước; các dịch bệnh đối với chăn nuôi cơ bản được kiểm soát, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện. Mặc dù, những tháng đầu năm dịch tả lợn châu Phi xảy ra trên địa bàn tỉnh đã được công bố hết dịch; nhưng đến trung tuần tháng 10 năm 2023 lại xuất hiện ổ dịch tả lợn châu Phi và dịch bệnh Tai xanh lợn ở 2 huyện Minh Hoá và Tuyên Hoá. Hiện tại, các địa phương có dịch đang kiểm soát và khống chế kịp thời. Bên cạnh đó, được sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo các cấp, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành địa phương và người dân đã thực hiện các biện pháp kiểm soát dịch bệnh hiệu quả. Trong những tháng cuối năm, người nuôi tích cực xử lý chuồng trại, tăng cường các biện pháp phòng dịch để tái đàn phục vụ cho tết Nguyên đán sắp tới. Ước tính tổng đàn vật nuôi năm 2023 có tăng nhẹ và sản lượng xuất chuồng tăng hơn so với năm trước.

Quý IV/2023, hoạt động sản xuất chăn nuôi lợn có xu hướng ổn định và phát triển khi dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh cơ bản đã được khống chế, đây là những tháng cuối năm, nên người dân tập trung thịt xuất chuồng để tái đàn cho kịp Tết. Đối với chăn nuôi gia cầm vẫn duy trì tốc độ tăng khá nhờ kiểm soát được dịch bệnh, giá thức ăn được chủ động hơn, thị trường tiêu thụ có bị

ảnh hưởng nhưng không đáng kể, giá bán sản phẩm không có biến động lớn. Theo đó, sản lượng xuất chuồng cả năm tăng hơn so với năm trước.

Ước tính đàn gia súc, gia cầm: Đàn trâu 31.076 con, giảm 3,5%; đàn bò 89.551 con, giảm 8,7%; đàn lợn 261.977 con, tăng 2,0%; đàn gia cầm 5.588,2 ngàn con, tăng 0,8% (trong đó: đàn gà 4.569,7 ngàn con, tăng 3,4%) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do giá trâu hơi giảm, hiệu quả kinh tế không cao; đàn bò của Công ty TNHH chăn nuôi Hòa Phát Quảng Bình đã xuất hết nhưng chưa tái đàn dẫn đến số lượng đầu con, số con xuất chuồng, sản lượng thịt hơi xuất chuồng của trâu, bò trên địa bàn tỉnh giảm.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý IV năm 2023 đạt 17.822,7 tấn, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu: 482 tấn, giảm 7,1%; thịt bò 1962 tấn, giảm 6,7%; thịt lợn 9.113 tấn, tăng 9,2%; thịt gia cầm 6.265,7 tấn, tăng 18,8% (trong đó thịt gà 6.013 tấn, tăng 7,8%) so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng cả năm 2023 đạt 82.656,0 tấn, tăng 5,1% so với năm trước. Trong đó: Thịt trâu 1.864,0 tấn, giảm 5,1%; thịt bò 9.284,0 tấn, giảm 5,4%; thịt lợn 44.105,0 tấn, tăng 4,8%; thịt gia cầm 27.403,0 tấn, tăng 10,4% (trong đó: thịt gà 21.060,0 tấn, tăng 12,6%) so với năm trước. Nguyên nhân, trong thời gian qua không có dịch bệnh lớn xảy ra, công tác tiêm phòng thú y, vệ sinh môi trường được chú trọng tạo điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi gia cầm.

Hình 2. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng


Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm (từ ngày 01/01/2023 đến ngày 31/10/2023):

- Dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay, còn 02 xã/2 huyện, thành phố có dịch chưa qua 21 ngày (Lê Hóa - Tuyên Hoá và Nam Lý - Đồng Hới). Lũy kế đến ngày 12/12/2023, dịch bệnh xảy ra tại 146 hộ/24 thôn/14 xã/5 huyện, thành phố (Đồng Hới, Minh Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Bố Trạch) làm 1.139 con lợn buộc tiêu hủy với trọng lượng là 55.538 kg.

- Bệnh Viêm da nổi cục, Lở mồm long móng, Cúm gia cầm: chưa xảy ra [1].

2.2. Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2023 nhìn chung phát triển ổn định, công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được quan tâm chỉ đạo, các ngành chức năng luôn phối hợp với các địa phương và Ban quản lý, chủ rừng tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng.

Diện tích rừng trồng mới tập trung quý IV ước thực hiện là 4.398,4 ha, tăng 1,1% so với cùng kỳ; cả năm 2023 ước đạt 10.747 ha, tăng 2,2% so với năm trước. Hiện nay, các địa phương đẩy nhanh tiến độ trồng rừng, đảm bảo hoàn thành đúng kế hoạch đề ra.

Hình 3. Sản xuất lâm nghiệp


Sản lượng gỗ khai thác quý IV ước đạt 211.408 m3, tăng 33,3% so với cùng kỳ năm trước; cả năm 2023 ước đạt 701.811 m3, tăng 19,9% so với năm trước.

Sản lượng củi khai thác quý IV ước đạt 72.669 ste, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước; cả năm 2023 ước đạt 351.458 ste, tăng 1,9% so với năm trước.

Năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 14 vụ cháy thiệt hại đến rừng, tăng 12 vụ so với năm trước; diện tích bị cháy là 80,63 ha, tăng 77,36 ha so với năm trước. Hiện nay, các ngành chức năng tăng cường công tác kiểm tra, tuyên truyền bảo vệ rừng, ý thức của người dân được nâng lên.

2.3. Thuỷ sản     

Sản xuất thuỷ sản năm 2023 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, không xảy ra dịch bệnh trên thủy sản nuôi; các phương tiện khai thác được ngư dân đầu tư sửa chữa, nâng cấp, đảm bảo cho việc vươn khơi, đánh bắt dài ngày. Vì vậy, sản xuất thuỷ sản đạt kết quả khá cả về khai thác và nuôi trồng.

Ước tính sản lượng thuỷ sản tháng 12 đạt 6.541,2 tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 4.986,9 tấn, tăng 2,5%; tôm đạt 509,1 tấn, giảm 0,7%; thuỷ sản khác đạt 1.045,2 tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thuỷ sản quý IV đạt 19.830,1 tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 15.459,6 tấn, tăng 4,2%; tôm đạt 1.493,1 tấn, giảm 0,4%; thuỷ sản khác đạt 2.877,4 tấn, tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng thuỷ sản cả năm ước đạt 97.067,9 tấn, tăng 4,2% so với năm trước. Sản lượng thủy sản chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 79.105,6 tấn, tăng 4,5%; tôm đạt 6.337,3 tấn, tăng 1,7%; thủy sản khác đạt 11.625,0 tấn, tăng 3,5% so với năm trước.

Hình 4. Sản lượng thủy sản


a) Khai thác

Thời tiết tương đối thuận lợi, các chủ tàu đầu tư sửa chữa, nâng cấp tàu nên thời gian bám biển khai thác được tăng cường. Tuy nhiên, giá xăng, dầu biến động mạnh trong năm, chi phí nhân công tăng; mặt khác nguồn lợi thuỷ sản trên biển ngày càng dần cạn kiệt, nên khai thác thuỷ sản biển, nhất là khai thác xa bờ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, sản lượng khai thác thuỷ sản tăng so với năm trước, song mức tăng không cao so với những năm gần đây.

Ước tính sản lượng khai thác tháng 12 đạt 5.278,1 tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 4.016,3 tấn, tăng 2,6%; tôm các loại 238,2 tấn, tăng 3,1%; thuỷ sản khác 1.023,6 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng khai thác quý IV đạt 16.096,6 tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 12.639,0 tấn, tăng 5,0%; tôm các loại 650,0 tấn, tăng 2,4%; thuỷ sản khác 2.807,6 tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng khai thác thủy sản năm 2023 ước đạt 83.834,6 tấn, tăng 4,6% so với năm trước. Trong đó: Cá các loại 70.305,6 tấn, tăng 4,8%; tôm các loại 2.154,0 tấn, tăng 3,2%; thủy sản khác 11.375,0 tấn, tăng 3,5% so với năm trước.

b) Nuôi trồng

Nhìn chung, cả năm 2023 thời tiết tương đối thuận lợi, riêng trong quý IV thời tiết có mưa lớn đã làm ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản, do đó sản lượng nuôi trồng thuỷ sản có giảm nhưng không đáng kể. Tuy nhiên, nhờ tranh thủ tối đa các nguồn lực cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và các hộ nuôi nên nuôi trồng thuỷ sản năm 2023 có tăng nhẹ so với năm trước.

Sản lượng nuôi trồng tháng 12 ước đạt 1.263,1 tấn, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng nuôi trồng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 970,6 tấn, tăng 2,2%; tôm các loại 270,9 tấn, giảm 7,2%: thuỷ sản khác 21,6 tấn, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng nuôi trồng quý IV ước đạt 3.733,5 tấn, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng nuôi trồng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 2.820,6 tấn, tăng 0,9%; tôm các loại 843,1 tấn, giảm 2,4%; thuỷ sản khác 69,8 tấn, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính năm 2023, sản lượng nuôi trồng thu hoạch đạt 13.233,3 tấn, tăng 1,9% so với năm trước. Sản lượng nuôi trồng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 8.800,0 tấn, tăng 2,4%; tôm các loại 4.183,3 tấn, tăng 0,8%; thuỷ sản khác 250,0 tấn, tăng 0,4% so với năm trước.

3. Công nghiệp

Sản xuất công nghiệp năm 2023 gặp nhiều khó khăn, thách thức, do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp và bất ổn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột Nga - Ukraine kéo dài, lạm phát tăng cao dẫn đến suy giảm kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2023, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nên tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt được kết quả tích cực. Một số ngành như: sản xuất chế biến thực phẩm; sản xuất đồ uống; sản xuất giấy; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn trong năm có các đơn hàng được ký kết nên sản xuất tăng khá so với năm trước góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp duy trì tăng trưởng. Bên cạnh kết quả đạt được, sản xuất công nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn; nhu cầu thị trường trong và ngoài nước vẫn chưa được phục hồi; đơn hàng xuất khẩu giảm; nhu cầu tiêu dùng giảm sút trong khi sản lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp tăng cao, một số doanh nghiệp phải giảm sản lượng sản xuất để ưu tiên tiêu thụ hàng tồn kho đã ảnh hưởng đến mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12 năm 2023 tăng 6,4% so với tháng trước và tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 19,6% (nguyên nhân chủ yếu do trữ lượng thực tế khai thác tại mỏ của ngành khai thác quặng kim loại đạt thấp); ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,0%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 12,5%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,3%.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp quý IV năm 2023 tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 7,3%; quý II tăng 6,8%; quý III tăng 5,1%). Trong đó, ngành khai khoáng giảm 8,3%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,0%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,0%. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp quý IV có mức tăng cao hơn các quý trước nhờ một số doanh nghiệp có các đơn hàng mới được ký kết nên tình hình sản xuất dần được phục hồi.

Tính chung 12 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,2% so với năm 2022. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 6,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,7%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 16,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,5%.

Hình 5. Chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp


Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2023 của một số ngành cấp 2 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 67,0%; sản xuất đồ uống tăng 44,2%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 24,8%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 23,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,2%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 15,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 15,0% (nguyên nhân một số ngành công nghiệp tăng cao so với năm trước là do trong năm 2022 một số doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động hoặc sản xuất sản phẩm với sản lượng thấp do đơn hàng giảm sút, sản phẩm tiêu thụ khó khăn). Một số ngành cấp 2 giảm so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác giảm 2,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn ghế) giảm 5,7%; sản xuất trang phục giảm 6,8%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 11,9%; khai thác quặng kim loại giảm 31,3% so với năm trước.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong năm 2023 so với năm trước: Quặng titan đạt 50,3 nghìn tấn, giảm 31,3%; đá xây dựng đạt 3,0 triệu m3, giảm 8,2%; cao lanh đạt 77,0 nghìn tấn, giảm 2,2%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 25,7 nghìn tấn, tăng 0,9%; tinh bột sắn đạt 14,1 nghìn tấn, tăng 94,9%; bia đóng chai đạt 5,3 triệu lít, tăng 102,7%; nước khoáng đạt 1,7 triệu lít, giảm 5,9%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 5.921 nghìn cái, giảm 2,4%; áo sơ mi đạt 10.237 nghìn cái, giảm 23,4%; dăm gỗ đạt 350,1 nghìn tấn, giảm 19,5%; ván ép từ gỗ đạt 43,8 nghìn m3, giảm 10,2%; cao su tổng hợp đạt 1,5 nghìn tấn, tăng 29,5%; kính cường lực đạt 2,9 nghìn tấn, tăng 5,8%; clinker thành phẩm đạt 2,6 triệu tấn, giảm 15,7%; xi măng đạt 1,7 triệu tấn, tăng 12,9%; điện gió đạt 578,1 triệu kwh, tăng 27,2%; điện thương phẩm đạt 1.102 triệu kwh, tăng 1,5%; nước máy thương phẩm đạt 14.273 nghìn m3, tăng 7,5%.

Hình 6. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong


4. Phát triển doanh nghiệp và các thành phần kinh tế

a) Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp

Đã tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện công tác sắp xếp, đổi mới DN nhà nước: Phê duyệt đề án cơ cấu cơ cấu lại DN nhà nước giai đoạn 2021-2025 của Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết Quảng Bình; phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Quảng Bình; phê duyệt chiến lược kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển giai đoạn 2021-2025 của Công ty TNHH MTV Lâm công nghiệp Long Đại…; triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm được Thủ tướng Chính phủ giao tại các Quyết định số 1479/QĐ-TTg ngày 29/11/2022 về việc phê duyệt kế hoạch sắp xếp lại DN nhà nước, DN có vốn nhà nước giai đoạn 2022 - 2025.

b) Công tác đăng ký kinh doanh

Ước tính trong năm 2023 cấp đăng ký thành lập mới giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho 572 doanh nghiệp với số vốn đăng ký hơn 6.700 tỷ đồng; có 347 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động; 40 doanh nghiệp giải thể tự nguyện, 233 doanh nghiệp hoạt động trở lại. Đến hết năm 2023, tổng số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt 8.532 doanh nghiệp với số vốn đăng ký hơn 113.830 tỷ đồng. Công tác chuẩn hóa và số hóa dữ liệu thông tin doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tại Hệ thống Thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp tiếp tục được hoàn thiện.

c) Kinh tế hợp tác

Kinh tế hợp tác được củng cố về tổ chức, nâng cao năng lực nội tại, tích luỹ đầu tư phát triển: Toàn tỉnh có 01 liên hiệp hợp tác xã (ở huyện Lệ Thủy với 4 hợp tác xã thành viên), 471 hợp tác xã, 589 THT; trong đó có 38 hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (chiếm 12% trên tổng số hợp tác xã), 80 hợp tác xã nông nghiệp tham gia chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho các hộ thành viên với 30 doanh nghiệp.380 trang trại, trong đó 53 trang trại sử dụng công nghệ cao và 14 trang trại tham gia chuỗi liên kết. Công tác tổ chức liên kết theo chuỗi giá trị được nhân rộng, phù hợp với sản xuất hàng hóa; nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, OCOP của các hợp tác xã được chú trọng nâng cao chất lượng và thay đổi mẫu mã thích ứng với thị hiếu của thị trường. Đến nay, toàn tỉnh có 145 sản phẩm OCOP được công nhận, tăng 51 sản phẩm so với cùng kỳ, trong đó có 19 sản phẩm 4 sao, 126 sản phẩm 3 sao. Dự kiến hết năm 2023 tổ chức đánh giá và công nhận thêm 15 sản phẩm đạt 4 sao, nâng tổng số sản phẩm OCOP 4 sao lên 34 sản phẩm, đạt và vượt kế hoạch giai đoạn 2021-2025. Các hợp tác xã thương mại, dịch vụ du lịch, giao thông vận tải đã tích cực đổi mới phương thức kinh doanh, mở rộng quy mô, phục vụ tốt nhu cầu của khách hàng.

5. Đầu tư, xây dựng

Hoạt động đầu tư, xây dựng trên địa bàn tỉnh trong năm 2023 đạt được kết quả tích cực. Ngay từ đầu năm, đã khởi công nhiều dự án lớn, như: Dự án Thành phần 2 cầu Nhật Lệ 3 và đường hai đầu cầu; dự án Trung tâm Thể dục - Thể thao tỉnh Quảng Bình; dự án Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh và đặc biệt là dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đoạn qua Quảng Bình;… Với quyết tâm phấn đấu giải ngân tối đa nguồn vốn được bố trí trong năm 2023, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt, tập trung tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình triển khai kế hoạch. Tiếp tục kêu gọi, thu hút đầu tư, tích cực tháo gỡ khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư triển khai dự án đảm bảo tiến độ. Bên cạnh đó, các dự án phát triển khu nghỉ dưỡng, khu nhà ở thương mại, khu đô thị trên địa bàn tỉnh, như: Khu đô thị Bảo Ninh 1; Khu đô thị Bảo Ninh 2; dự án khách sạn 5 sao Dolce Penisola Quảng Bình;… cũng đang tiếp tục được các chủ đầu tư, đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương trong năm 2023.

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn: Vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh trong quý IV năm 2023 ước tính đạt 8.504,3 tỷ đồng, tăng 4,5% so với quý trước và tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước đạt 2.385,4 tỷ đồng, tăng 41,4%; vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực ngoài nhà nước đạt 6.112,2 tỷ đồng, tăng 5,3%; vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6,7 tỷ đồng, giảm 82,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh đạt 29.600,0 tỷ đồng, tăng 9,9% so với năm 2022. Trong đó: vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước đạt 7.319,8 tỷ đồng, (chiếm 24,73% tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn) tăng 32,6%; vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực ngoài nhà nước đạt 22.238,7 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn (chiếm 75,13%), tăng 4,6%; vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 41,5 tỷ đồng (chiếm 0,14%), giảm 82,9%.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý: Trong tháng 12 năm 2023, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý ước tính đạt 598,0 tỷ đồng, tăng 4,7% so với tháng trước và tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư quý IV năm 2023 đạt 1.662,3 tỷ đồng, tăng 31,4% so với quý trước và tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý đạt 5.121,5 tỷ đồng, tăng 12,5% so với năm 2022. Trong đó: Vốn NSNN cấp tỉnh đạt 3.413,9 tỷ đồng, tăng 9,7%; vốn NSNN cấp huyện đạt 1.022,7 tỷ đồng, tăng 18,2%; vốn NSNN cấp xã đạt 684,9 tỷ đồng, tăng 18,8% so với năm 2022.

Hình 7. Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý


b) Xây dựng

Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh trong quý IV và cả năm 2023 đạt được kết quả tích cực. Ngay từ đầu năm, đã khởi công nhiều dự án lớn, như: Dự án Thành phần 2 cầu Nhật Lệ 3 và đường hai đầu cầu; dự án Trung tâm Thể dục - Thể thao tỉnh Quảng Bình; dự án Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh và đặc biệt là dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đoạn qua Quảng Bình;… Với quyết tâm phấn đấu giải ngân tối đa nguồn vốn được bố trí trong năm 2023, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt, tập trung tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình triển khai kế hoạch. Tiếp tục kêu gọi, thu hút đầu tư, tích cực tháo gỡ khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư triển khai dự án đảm bảo tiến độ. Bên cạnh đó, các dự án phát triển khu nghỉ dưỡng, khu nhà ở thương mại, khu đô thị trên địa bàn tỉnh, như: Khu đô thị Bảo Ninh 1; Khu đô thị Bảo Ninh 2; dự án khách sạn 5 sao Dolce Penisola Quảng Bình;… cũng đang tiếp tục được các chủ đầu tư, đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương trong năm 2023.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá so sánh 2010 trên địa bàn tỉnh quý IV năm 2023 ước tính đạt 4.761,3 tỷ đồng, tăng 6,7% so với quý trước và tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023, giá trị sản xuất ngành xây dựng đạt 15.527,2 tỷ đồng, tăng 14,0% so với năm 2022. Trong đó, giá trị sản xuất của công trình nhà ở đạt 7.817,9 tỷ đồng, tăng 3,1%; công trình nhà không để ở đạt 1.658,9 tỷ đồng, giảm 0,2%; giá trị sản xuất của công trình kỹ thuật dân dụng đạt 5.767,8 tỷ đồng, tăng 41,9% và hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 282,6 tỷ đồng, giảm 8,3%.

6. Thương mại, dịch vụ

a) Tổng mức bán lẻ hàng hoá

Hoạt động thương mại dịch vụ tháng 12 diễn ra khá sôi động để chuẩn bị phục vụ cho các ngày lễ lớn cuối năm và chào mừng năm mới 2024 do đó tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 12 tăng so với tháng trước.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 12 đạt 3.790,2 tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 5,0% so với cùng kỳ. Trong đó tất cả các nhóm hàng hóa đều tăng so với tháng trước, cụ thể: nhóm lương thực, thực phẩm tăng 1,9%; nhóm hàng may mặc tăng 1,6%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 1,3%; nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 0,8%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 2,6%; nhóm ô tô con (dưới 9 chổ ngồi) tăng 1,6%; nhóm nhiên liệu khác tăng 0,1%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 0,7%; nhóm hàng hóa khác tăng 0,6%; nhóm sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 0,3% so với tháng trước.

Ước tính quý IV năm 2023 tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 11.234,1 tỷ đồng, giảm 2,3% so với quý trước, tăng 5,3% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 45.970 tỷ đồng, tăng 10,1% so với năm 2022 (nếu loại trừ ảnh hưởng của yếu tố giá, tăng 7,4%), tăng cao nhất là nhóm lương thực thực phẩm (+14,2%) đóng góp tăng 5,2 điểm phần trăm, nhóm hàng may mặc tăng 12,9% đóng góp tăng 1,61 điểm phần trăm trong tổng số tăng chung của tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Năm 2023, hoạt động thương mại, dịch vụ trong tỉnh vẫn duy trì được sự ổn định và có nhiều tín hiệu khởi sắc, cùng với nhu cầu tham quan, vui chơi, giải trí của người dân tăng cao vào các dịp nghỉ lễ, mùa du lịch đã tác động tích cực đến tổng mức bán lẻ hàng hóa. Tuy nhiên trước những diễn biến phức tạp khó lường của nền kinh tế thế giới và trong nước, lạm phát tăng cao, tăng lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ, giá xăng dầu, nguyên vật liệu đầu vào biến động mạnh ảnh hưởng đến nhiều ngành, lĩnh vực kinh doanh, trong đó ngành thương mại, dịch vụ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về chi phí vận chuyển, kho bãi, nhân công...; thu nhập của người dân chưa được cải thiện nhiều nên xu hướng tiêu dùng vẫn tập trung vào mua sắm các nhóm hàng thiết yếu là chính và hạn chế các nhóm hàng hóa, dịch vụ chưa thật sự cần thiết,… làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Hình 8. Tổng mức bán lẻ hàng hóa


Doanh thu tổng mức bán lẻ hàng hóa của tỉnh năm 2023 đạt 45.970,0 tỷ đồng, tăng 10,1% so với năm trước, đó là sự nỗ lực của các sở, ban, ngành và các doanh nghiệp đã chỉ đạo, tạo điều kiện phát triển mạng lưới lưu thông phân phối và bán lẻ hàng hóa; chú trọng phát triển các ngành dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng phục vụ và năng lực cạnh tranh, bảo đảm phục vụ tốt nhất nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ cho sản xuất cũng như đời sống Nhân dân. Tích cực gắn kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong vùng để phát triển du lịch; khai thác, phát triển đa dạng các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch. Tiếp tục thực hiện tốt Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; tổ chức các hội chợ, phiên chợ đưa hàng Việt về phục vụ nông thôn; đẩy mạnh xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của địa phương; cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ, triển lãm. Tăng cường quản lý thị trường, xử lý nghiêm, kịp thời các hành vi mua bán hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, gian lận thương mại, góp phần bảo đảm thị trường phát triển lành mạnh, cung - cầu hàng hóa ổn định, chất lượng, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người sản xuất và người tiêu dùng,… Nhờ vậy, tình hình thị trường hàng hóa, dịch vụ tương đối ổn định, sức mua tiêu dùng tăng cao, lượng hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng tốt nhu cầu, thị hiếu người dân, không xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hay tăng giá đột biến.

b) Lưu trú, ăn uống và du lịch

Từ đầu năm đến nay, nhu cầu du lịch và nghỉ dưỡng của người dân tương đối cao, nhiều du khách trên cả nước đã chọn Quảng Bình là điểm đến tham quan, nghỉ dưỡng, giúp tỉnh nhà thu hút lượng khách du lịch lớn. Bên cạnh đó, nguồn cung hàng hóa, lương thực, thực phẩm luôn được bảo đảm để phục vụ người dân lẫn khách du lịch, góp phần thúc đẩy hoạt động tiêu dùng, tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn. Đặc biệt trong quý II và quý III năm 2023 lượng khách du lịch tương đối lớn, bước sang quý IV, dù lượng khách du lịch giảm nhiều, song các hoạt động tuyên truyền, quảng bá vẫn tiếp tục diễn ra, đồng thời triển khai các chương trình kích cầu, giảm giá 10 - 30% các dịch vụ cho khách du lịch với điểm nhấn là chương trình khảo sát, quảng bá, phát triển sản phẩm du lịch mới, đặc biệt là sự kiện Làng du lịch Tân Hóa thuộc huyện Minh Hóa được tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) vinh danh là “Làng du lịch tốt nhất thế giới năm 2023”. Khu du lịch suối nước nóng Bang Onsen Spa & Resort Quảng Bình giảm giá 30% tất cả các dịch vụ cho khách du lịch là người Quảng Bình. Bên cạnh đó, chương trình “Đón chào năm 2024” từ ngày 23/12 - 31/12/2023 sẽ trở nên sôi động và rực rỡ hơn bao giờ hết với Legend Festival. Đây là lễ hội âm nhạc và ánh sáng lần đầu tiên có mặt tại thành phố Đồng Hới (Quảng Bình), mang đến cho du khách trải nghiệm thế giới của 5 chương lễ hội đầy màu sắc sẽ hứa hẹn một lượng lớn du khách đến tham quan tỉnh Quảng Bình.

- Dịch vụ lưu trú:

Doanh thu lưu trú tháng 12/2023 ước đạt 39,9 tỷ đồng, tăng 4,4% so với tháng trước, tăng 2,3% so với cùng kỳ; quý IV/2023, thời tiết chuyển mùa mưa lũ, đồng thời đây cũng là mùa du lịch thấp điểm trong năm nên doanh thu lưu trú đạt thấp. Ước tính doanh thu lưu trú quý IV/2023 đạt 116,6 tỷ đồng, giảm 35,4% so với quý trước, tăng 3,5% so với cùng kỳ; năm 2023 đạt 558,0 tỷ đồng, tăng 23,9% so với năm 2022.

Số lượt khách lưu trú tháng 12/2023 ước đạt 120.455 lượt khách, tăng 4,9% so với tháng trước, tăng 2,4% so với cùng kỳ; quý IV/2023 ước đạt 351.531 lượt khách, giảm 34,3% so với quý trước, tăng 4,0% so với cùng kỳ; năm 2023 đạt 1,7 triệu lượt khách, tăng 27,3% so với năm trước, trong đó số lượt khách quốc tế ngủ qua đêm đạt 95,4 nghìn lượt khách, gấp 2,84 lần so với năm 2022.

- Dịch vụ ăn uống:

Doanh thu ăn uống tháng 12/2023 ước đạt 295,6 tỷ đồng, tăng 3,2% so với tháng trước, tăng 1,5% so với cùng kỳ; quý IV/2023 ước đạt 869,8 tỷ đồng, giảm 27,1% so với quý trước, tăng 1,7% so với cùng kỳ; năm 2023 đạt 3.995,0 tỷ đồng, tăng 11,0% so với năm 2022.

Hình 9. Dịch vụ lưu trú, ăn uống


- Du lịch lữ hành:

Doanh thu du lịch lữ hành tháng 12/2023 ước đạt 33,0 tỷ đồng, tăng 4,3% so với tháng trước, tăng 4,7% so với cùng kỳ, quý IV/2023 ước đạt 96,9 tỷ đồng, giảm 33,7% so với quý trước, tăng 7,0% so với cùng kỳ; năm 2023 đạt 455,0 tỷ đồng, tăng 28,8% so với năm 2022.

Hình 10. Du lịch lữ hành


Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 12/2023 ước đạt 57.835 lượt khách, tăng 4,1% so với tháng trước, tăng 16,3% so với cùng kỳ; quý IV/2023 ước đạt 169.419 lượt khách, giảm 31,0% so với quý trước, tăng 18,8% so với cùng kỳ; năm 2023 đạt 758.957 lượt khách, tăng 43,2% so với năm 2022, trong đó số lượt khách quốc tế đạt 84,4 nghìn lượt khách, gấp 2,88 lần so với năm 2022.

c) Dịch vụ khác

Các ngành kinh doanh dịch vụ tăng trưởng tích cực trong năm 2023, đặc biệt trong quý II, quý III, các nhóm ngành dịch vụ đều tăng do nhu cầu tiêu dùng, du lịch, vui chơi giải trí vào dịp hè sôi động hơn bởi ảnh hưởng từ ngành du lịch phát triển kéo theo các dịch vụ đi kèm tăng như dịch vụ lao động, cho thuê phương tiện đi lại, vui chơi, giải trí và các dịch vụ khác. Tuy nhiên trong đó riêng ngành dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm mạnh do chính sách tài khóa, thắt chặt tín dụng làm cho thanh khoản của thị trường bất động sản gặp khó khăn, giá bất động sản giảm do nguồn cầu giảm đã tác động giảm đến tổng doanh thu của các ngành kinh doanh dịch vụ.

Doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ trên địa bàn tỉnh tháng 12 ước đạt 178,6 tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 8,8% so với cùng kỳ; quý IV/2023 tăng khá so với cùng kỳ do doanh thu ngành dịch vụ kinh doanh bất động sản đã có tín hiệu tích cực hơn bởi chính sách tài khóa về lãi suất cho vay giảm mạnh kích thích dòng tiền đổ vào bất động sản, lượng giao dịch tăng so với quý trước. Ước tính quý IV/2023 đạt 530,4 tỷ đồng, giảm 0,9% so với quý trước, tăng 7,4% so với cùng kỳ. Năm 2023 đạt 2.115,8 tỷ đồng, tăng 1,9% so với năm 2022.

Xét theo từng nhóm dịch vụ, hầu hết các nhóm dịch vụ đều tăng cao từ 13,3%-16,8% so với năm 2022; nhóm dịch vụ giáo dục tăng thấp nhất 8,3% so với năm trước vì năm nay chính sách miễn giảm học phí các cấp học tiếp tục được thực hiện. Chỉ duy nhất nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm mạnh (-23,4%) đã làm giảm 2,2 điểm phần trăm trong tổng số tăng chung của các ngành kinh doanh dịch vụ.

d) Vận tải

Hoạt động vận tải tháng 12 năm 2023, giá xăng, dầu được điều chỉnh giảm hai lần liên tiếp cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy ngành vận tải tăng trưởng tích cực. Bên cạnh đó, nhiều dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh và hộ dân cư đẩy nhanh tiến độ hoàn thành trước Tết nên nhu cầu vận chuyển nguyên, vật liệu, thiết bị phục vụ cho các công trình tăng; nhu cầu đi lại dịp cuối năm cũng tăng, dẫn đến hoạt động vận tải hành khách và vận tải hàng hóa tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước.

Tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 12 ước tính đạt 497,6 tỷ đồng, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 4,5% so với cùng kỳ, trong đó: Vận tải hành khách ước đạt 76,0 tỷ đồng, tăng 0,8% so với cùng kỳ; vận tải hàng hóa ước đạt 382,1 tỷ đồng, tăng 5,5% so với cùng kỳ; dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát ước đạt 39,5 tỷ đồng, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2022.

Quý IV/2023, tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 1.434,4 tỷ đồng, tăng 2,4% so với quý trước và tăng 4,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vận tải hành khách ước đạt 224,8 tỷ đồng, giảm 1,9% so với quý trước và tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hóa ước đạt 1.095,9 tỷ đồng, tăng 3,3% so với quý trước và tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát ước đạt 113,7 tỷ đồng, tăng 3,0% so với quý trước và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước.

Năm 2023, hoạt động vận tải vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định của các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đặc biệt là sự khởi sắc của ngành du lịch. Bên cạnh đó, ngành Giao thông vận tải đã chỉ đạo triển khai tốt, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hỗ trợ vận tải không ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

Tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải năm 2023 ước tính 5.481 tỷ đồng, tăng 12,0% so với năm 2022, trong đó: Vận tải hành khách ước đạt 880,0 tỷ đồng, tăng 7,9%; vận tải hàng hóa ước đạt 4.160,5 tỷ đồng, tăng 13,2%; dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát ước đạt 440,5 tỷ đồng, tăng 9,8% so với năm 2022.

Vận tải hành khách: Ước tính tháng 12/2023, số lượt hành khách vận chuyển đạt 2,9 triệu hành khách, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 0,2% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 134,1 triệu hành khách.km, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 2,7% so với cùng kỳ. Quý IV/2023 số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 8,7 triệu hành khách, giảm 2,0% so với quý trước và tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 396,5 triệu hành khách.km, giảm 2,0% so với quý trước và tăng 2,1% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2023, số lượt hành khách vận chuyển đạt 35,0 triệu hành khách, tăng 8,5% so với năm 2022; số lượt hành khách luân chuyển đạt 1.583,0 triệu hành khách.km, tăng 8,4% so với năm 2022.

Vận tải hàng hóa: Ước tính khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 12/2023 đạt 3,2 triệu tấn, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 0,3% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 225,5 triệu tấn.km, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 8,1% so với cùng kỳ. Quý IV/2023 khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 9,2 triệu tấn, tăng 2,8% so với quý trước và tăng 1,3% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 628,5 triệu tấn.km, tăng 4,9% so với quý trước và tăng 5,9% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2023, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 34,8 triệu tấn, tăng 13,4% so với năm 2022; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 2.395,6 triệu tấn.km, tăng 11,9% so với năm 2022.

Hình 11. Doanh thu hoạt động vận tải


đ) Bưu chính, viễn thông

- Bưu chính

Hiện nay trên địa bàn có trên 15 doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính (tăng thêm 1 doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính so với năm 2022, trong đó có 7 doanh nghiệp có văn bản xác nhận hoạt động bưu chính, 8 doanh nghiệp hoạt động theo hình thức địa điểm kinh doanh). Số lao động trên lĩnh vực bưu chính trên địa bàn là trên 1.700 lao động, tăng khoảng 200 lao động so với năm 2022. Có 151/151 xã, phường, thị trấn có điểm phục vụ bưu chính có người phục vụ, ổn định so với năm 2022.

Sàn thương mại điện tử Postmart.vn của doanh nghiệp bưu chính đã đưa được 94 sản phẩm OCOP trên địa bàn lên sàn thương mại điện tử, giữ nguyên so với năm 2022.

- Viễn thông

Doanh thu hoạt động viễn thông ước tính khoảng 1.100 tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm 2022.

Số lượng doanh nghiệp viễn thông đang hoạt động trên địa bàn tỉnh: 6 doanh nghiệp, ổn định so với năm 2022.

Số thuê bao điện thoại di động đạt 961.019 thuê bao, tăng thêm 12.779 thuê bao tăng 12,2% so với năm 2022, tỷ lệ thuê bao điện thoại di động khoảng 96 thuê bao/100 dân (năm 2022 là 91 thuê bao/100 dân). Số thuê bao Internet là hộ gia đình đạt 165.778 thuê bao, tăng thêm 7.484 thuê bao, tăng 10,3% so với năm 2022; tỷ lệ thuê bao Internet băng rộng cố định 18 thuê bao/100 hộ dân (năm 2022 là 16,9 thuê bao/100 hộ dân).

Hạ tầng trạm thu phát sóng thông tin di động (trạm BTS) đến cuối năm 2023 toàn tỉnh có 1.414 cột ăng ten trạm BTS, tăng 101 cột so với năm 2022; 100% xã, phường, thị trấn có kết nối cáp quang, internet băng thông rộng, không thay đổi so với năm 2022.

e) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của tỉnh Quảng Bình tháng 12 năm 2023 giảm 0,81% so tháng trước; tăng 8,82% so với tháng 12 năm trước; tính chung 12 tháng đầu năm 2023 CPI tăng 4,21% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: Nhóm hàng hóa tăng 3,11%; nhóm dịch vụ tăng 6,40%).

So với tháng trước, CPI tháng 12/2023 giảm 0,81% (khu vực thành thị giảm 1,18%; khu vực nông thôn giảm 0,6%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 2 nhóm hàng tăng giá, 5 nhóm giảm và 4 nhóm có chỉ số giá tiêu dùng ổn định. Cụ thể có 5 nhóm CPI giảm đó là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 2,37%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 2,02%; nhóm giao thông giảm 1,48%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,13%; hóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,04%. Có 2 nhóm CPI tăng đó là nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,22%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,19%. Các nhóm chỉ số giá không đổi so với tháng trước đó là: nhóm may mặc mũ nón và dày dép; nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình; nhóm giáo dục.

Nguyên nhân làm giảm CPI tháng 12 năm 2023 so với tháng trước:

Theo Thông tư 13/2019/TT-BYT sửa đổi Thông tư 39/2018/TT-BYT của Bộ Y tế về việc quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc, trong đó điều chỉnh một số nhóm giá dịch vụ y tế tăng cao; Thông tư 60/2023/TT-BTC quy định mức lệ phí đăng ký, cấp biển số mới đối các loại phương tiện giao thông cơ giới điều chỉnh tăng. Tuy nhiên tháng này giá một số mặt hàng thiết yếu chiếm quyền số lớn trong rổ hàng hóa giảm mạnh như giá nhiên liệu trong nước điều chỉnh giảm theo giá nhiên liệu thế giới, giá giảm 5,11%, trong đó: giá xăng giảm 5,32%; giá dầu diezel giảm 7,59%; giá thực phẩm giảm mạnh, đặc biệt là như thịt lợn, thịt bò, thịt gia cầm,… các yếu tố trên đã tác động làm giảm CPI tháng 12 năm 2023 so với tháng trước.

- Chỉ số giá vàng 99,99%

  Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước, bình quân tháng 12/2023 giá vàng dao động quanh mức 6.144,7 triệu đồng/lượng vàng 99,99%, tăng 5,5% so với tháng trước, tăng 59,34% so với kỳ gốc 2019, tăng 16,05% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 12 tháng tăng 5,35% so với cùng kỳ.

- Chỉ số giá đô la Mỹ (USD)

Giá đô la Mỹ (USD) tháng 12/2023 có giá bình quân 24.101 đồng/USD, giảm 0,65% so với tháng trước, tăng 4,34% so với kỳ gốc 2019, tăng 0,32% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 12 tháng tăng 1,96% so với cùng kỳ.

7. Tài chính, tín dụng

a) Tài chính

Trong bối cảnh thị trường BĐS đóng băng từ cuối năm 2022, ngay từ đầu năm 2023, UBND tỉnh đã quyết liệt chỉ đạo tăng cường công tác quản lý thu và tăng thu ngân sách, triển khai đồng bộ các biện pháp quản lý thuế, trong đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế và đẩy mạnh quản lý nợ đọng thuế, nhằm thu đúng, thu đủ, kịp thời, phấn đấu đạt dự toán thu NSNN ở mức cao nhất. Tổng thu NSNN năm 2023 ước tính thực hiện 5.703 tỷ đồng, bằng 81,4% dự toán địa phương giao. Trong bối cảnh thu NSNN giảm tốc trong khi nhu cầu chi ngân sách vẫn phải đảm bảo, UBND tỉnh đã chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời cho các ngành, các cấp về điều hành chi NSNN đảm bảo chặt chẽ theo đúng dự toán được duyệt, sử dụng ngân sách triệt để tiết kiệm, hiệu quả, đúng chế độ quy định.

Tổng chi NSNN năm 2023 ước thực hiện 11.415 tỷ đồng, đạt 82,1% dự toán địa phương giao.

b) Tín dụng

Các tổ chức tín dụng đẩy mạnh triển khai thực hiện các chỉ đạo, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước về ổn định lãi suất, nhất là giảm lãi suất cho vay; rà soát các điều kiện, tiêu chí cho vay để áp dụng thuận lợi hơn cho người vay, tăng khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, người dân. Ước tính đến 31/12/2023, tổng số vốn huy động của các tổ chức tín dụng đạt 61.750 tỷ đồng, tăng 12,1% so với đầu năm; tổng dư nợ cho vay đạt 83.560 tỷ đồng, tăng 6,2% so với đầu năm. Tổng số tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đạt 18 tổ chức. Đã triển khai hiệu quả công tác đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng.

II. XÃ HỘI

1. Y tế

Toàn tỉnh có 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế; 100% trạm y tế xã, phường có bác sỹ làm việc; 100% trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh. Ước tính năm 2023, toàn tỉnh có 149/151 đạt tỷ lệ 98,68% theo tiêu chí cũ (chưa đánh giá theo bộ tiêu chí mới) trạm y tế xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn quốc gia về y tế. Các cơ sở y tế đã tổ chức phục vụ kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh cho Nhân dân, thực hiện tốt công tác điều trị cách ly đối với các đối tượng có nguy cơ.

Năm 2023, tình hình các bệnh truyền nhiễm đều được kiểm soát tốt, đa số giảm so với năm 2022, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh chỉ đạo sát sao các sở, ban, ngành, đoàn thể, các UBND huyện, thị xã, thành phố trong công tác phòng, chống dịch bệnh, nhờ đó sức khỏe người dân được đảm bảo. Thời tiết các tháng cuối năm diễn biến bất thường đã tạo điều kiện các dịch bệnh cúm, sốt xuất huyết Dengue phát triển, số lượng bệnh nhân có chiều hướng gia tăng trong tháng 10 và tháng 11. Trong tháng 11 số ca bệnh sốt xuất huyết Dengue ghi nhận là 589 ca trong đó có 1 trường hợp tử vong, tháng 12 tính đến 17/12/2023 ghi nhận 257 ca sốt xuất huyết Dengue, luỹ kế từ đầu năm đến ngày 17/12/2023 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 1.722 trường hợp sốt xuất huyết Dengue. Để chủ động phòng và khống chế dịch sốt xuất huyết Dengue, không để dịch lớn xảy ra trong những tháng cuối năm, CDC Quảng Bình đã chỉ đạo Trung tâm y tế các huyện, thị xã, thành phố khẩn trương thực hiện giám sát bệnh nhân và các chỉ số vecto sốt xuất huyết Dengue tại các xã, phường trọng điểm, ổ dịch cũ và các xã có nguy cơ.

Tháng 11/2023, trên địa bàn tỉnh phát hiện 01 người nhiễm mới HIV, 01 người nhiễm AIDS. Tính đến ngày 30/11/2023, lũy tích nội tỉnh số người nhiễm HIV là 491 người; số bệnh nhân AIDS là 415 người; số bệnh nhân tử vong là 143 người. Hiện tại, Sở Y tế tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, khám, điều trị bệnh nhân HIV/AIDS, hướng dẫn các hành vi an toàn dự phòng lây nhiễm HIV, nhằm hạn chế sự lây nhiễm HIV trong nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng.

Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Trong tháng xảy ra 18 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ, tính đến ngày 15/12/2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 4 vụ ngộ độc thực phẩm với 32 ca mắc trong đó có 1 trường hợp tử vong, ngoài ra còn có 219 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ, các bệnh nhân đã được nhập viện điều trị kịp thời.

2. Giáo dục và đào tạo

  Năm 2023, diễn ra trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi, dịch bệnh được kiểm soát tốt tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục triển khai nhiệm vụ năm học theo kế hoạch đề ra. Năm học 2022 - 2023, ngành Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống trường, lớp học được sắp xếp ngày càng hợp lý, hiệu quả. Trong đó, các cơ sở giáo dục đã chú trọng tổ chức các hoạt động trải nghiệm, các hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm bù đắp những năng lực, phẩm chất còn thiếu sau thời gian dài dạy học ứng phó với dịch bệnh. Bước vào năm học mới 2023 - 2024, ngành GD&ĐT tiếp tục thực hiện đổi mới công tác quản lý Nhà nước về giáo dục; triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn cho cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong ngành GD&ĐT nói chung, công tác dạy và học, quản lý giáo dục, quản trị nhà trường nói riêng, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nhiệm vụ GD&ĐT trong giai đoạn hiện nay.

Năm học 2023 - 2024, quy mô trường, lớp của các bậc học tiếp tục được rà soát, sắp xếp hợp lý, phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH của địa phương, đáp ứng nhu cầu người học. Đến nay, toàn tỉnh có 376 trường phổ thông, gồm 374 trường công lập và 02 trường tư thục. Trong đó, tiểu học 178 trường; trung học cơ sở 166 trường; trung học phổ thông 32 trường. Lớp học có 5.789 lớp, trong đó, tiểu học 3.270 lớp; trung học cơ sở 1.716 lớp; trung học phổ thông 803 lớp. Phòng học có 5.582 phòng, trong đó, tiểu học 3.274 phòng; trung học cơ sở 1.540 phòng; trung học phổ thông 768 phòng.

Tổng số giáo viên năm học 2023 - 2024 là 9.315 người, trong đó, tiểu học 4.572 người; trung học cơ sở 3.003 người; trung học phổ thông 1.740 người. Tổng số học sinh là 187.799 em, trong đó, tiểu học 92.259 em; trung học cơ sở 62.560 em; trung học phổ thông 32.980 em. Số học sinh bình quân một giáo viên 20,2 em, trong đó, tiểu học 20,2 em; trung học cơ sở 20,8 em; trung học phổ thông 19 em. Số học sinh bình quân một lớp học 32,4 em, trong đó, tiểu học 28,2 em; trung học sơ sở 36,5 em; trung học phổ thông 41,1 em.

Kỳ thi THPT Quốc gia năm 2023: Toàn tỉnh có 96,96% thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT, trong đó điểm trung bình của tất cả các môn là 6,365 (xếp thứ 35/63 tỉnh/thành phố, tăng 03 bậc so với năm 2022); có 03/09 môn thi có điểm trung bình cao hơn điểm trung bình toàn quốc (Vật lý, Hóa học, Lịch sử) có 159 bài thi/môn thi đạt điểm 10 (tăng 85 bài thi/môn thi so với năm 2022, xếp thứ 36/63 tỉnh/thành phố).

Tính đến thời điểm 20/12/2023, toàn tỉnh có 320/563 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 56,8%. Trong đó: Mầm non đạt 51%; tiểu học đạt 67%; trung học cơ sở đạt 56%; trung học phổ thông đạt 41%.

3. Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao

a) Hoạt động văn hóa

Năm 2023, tỷ lệ hộ gia đình được công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa toàn tỉnh ước đạt 89,2%, vượt 2% so với kế hoạch; tỷ lệ thôn, bản, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa ước đạt 88,5%, vượt 2,5% so với kế hoạch. Các hoạt động chào mừng năm mới, tết Nguyên đán Quý Mão, hoạt động kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên và các hoạt động vào các ngày lễ lớn của đất nước diễn ra sôi nổi, lành mạnh và tiết kiệm. Hoạt động lễ hội trong năm đảm bảo quy chế, quy định, trong đó tiêu biểu là lễ hội Chùa Hoằng Phúc, lễ hội chùa Non, núi Thần Đinh, lễ hội Đền Thánh mẫu Liễu Hạnh; lễ hội Rằm Tháng Ba Minh Hóa; Lễ hội Đập trống của Đồng bào Ma Coong; dịp lễ 30/4 và 1/5, dịp kỷ niệm 78 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, các địa phương trên địa bàn tỉnh đã tổ chức lễ hội đua thuyền truyền thống với quy mô lớn thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham gia tạo không khí vui tươi, phấn khởi.

Tháng 12, các hoạt động chào đón năm mới 2024 đang tích cực được chuẩn bị bao gồm chương trình đếm ngược “Chào đón năm mới 2024”, các hoạt động nghệ thuật, ẩm thực đường phố phục vụ khách du lịch tại thị trấn Phong Nha, huyện Bố Trạch; hội thi Ẩm thực du lịch Quảng Bình; chương trình bắn pháo hoa tầm thấp Chào đón năm mới 2024 tại thành phố Đồng Hới tạo bầu không khí sôi nổi trên địa bàn.

b) Hoạt động thể dục thể thao

Thể thao phong trào tiếp tục có những bước chuyển biến mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào việc duy trì và nâng cao thể chất cho Nhân dân. Trong năm, tổ chức thành công các giải thi đấu cấp tỉnh; đăng cai tổ chức giải Cờ vua - Cờ tướng các nhóm tuổi trẻ Miền Trung lần thứ XIX năm 2023; phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức 11 giải, trong đó một số giải quy mô lớn như: đón, tiễn đoàn đua xe đạp tranh Cúp Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh năm 2023 “Non song liền một dải - Niềm tin chiến thắng”; giải chạy “Quang Binh Discovery Marathon 2023”; giải chạy “Grand Marathon Dong Hoi - 2023”; giải Đua xe Ô tô địa hình quốc tế RFC Việt Nam 2023. Tháng 12, Sở Văn hóa và Thể thao tổ chức thành công giải Cầu lông các câu lạc bộ tỉnh Quảng Bình năm 2023 diễn ra từ ngày 15-17/12/2023. Thông qua giải nhằm tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” giai đoạn 2021 - 2030 trên địa bàn tỉnh.

Trong năm, các đội tuyển thể thao Quảng Bình đã tham gia thi đấu 32 giải (29 giải thể thao trong nước và 3 giải quốc tế) đã đạt thành tích cao: gồm 187 huy chương các loại (47 HCV, 56 HCB, 84 HCĐ) vượt 20% kế hoạch năm.

4. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Năm 2023, an ninh trật tự được đảm bảo, nhân dịp tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, Công an tỉnh triển khai đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, bảo đảm an ninh trật tự bắt đầu từ ngày 15/12/2023 đến ngày 29/2/2024. Trọng tâm là nắm bắt tình hình từ sớm, từ xa, kịp thời phát hiện, giải quyết dứt điểm các vụ việc nổi lên ngay từ cơ sở, không để phức tạp, kéo dài, không để hình thành điểm nóng về an ninh trật tự.

- An toàn giao thông

Trong tháng (từ 15/11/2023 - 14/12/2023), trên địa bàn tỉnh xảy ra 22 vụ tai nạn giao thông, số người chết do tai nạn giao thông 5 người, số người bị thương do tai nạn giao thông 21 người. Năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 153 vụ tai nạn giao thông, tăng 36 vụ so với năm 2022, trong đó: đường bộ 150 vụ, đường sắt 3 vụ. Số người chết do tai nạn giao thông 70 người, tăng 5 người so với năm 2022. Số người bị thương do tai nạn giao thông 123 người, tăng 28 người so với năm 2022.

- Tình hình cháy nổ

Trong tháng 12 không xảy ra vụ cháy. Năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 15 vụ cháy với giá trị thiệt hại tạm ước tính 6.535,5 triệu đồng. So với năm 2022, số vụ cháy tăng 8 vụ, giá trị thiệt hại tạm ước tăng 1.547,5 triệu đồng.

5. Tình hình nổi bật khác về xã hội

- Tình hình đời sống dân cư

Năm 2023, mặc dù phải chịu ảnh hưởng chung bởi tình hình thế giới diễn biến phức tạp, bất ổn chính trị, thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, kinh tế thế giới suy giảm, tình hình trong nước phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: giá xăng dầu, nguyên vật liệu đầu vào đầu năm 2023 tăng cao, thị trường bất động sản trầm lắng, giảm sâu đã ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách và sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như người dân. Đối với tỉnh Quảng Bình, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tiếp tục khởi sắc, các ngành lĩnh vực vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng; sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản được mùa, sản lượng lương thực thực phẩm tăng khá, sản xuất công nghiệp mặc dù khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, nhưng vẫn tiếp tục tăng trưởng, các ngành dịch vụ tiếp tục đạt kết quả tích cực, tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ tăng khá so với năm 2022.

Những năm gần đây, Quảng Bình đặc biệt quan tâm đến công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó, giúp cho người lao động vùng khó khăn tăng thêm thu nhập, thay đổi tư duy, góp phần thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững. 

Năm 2023, bằng những cách làm, hoạt động thiết thực, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, sát với thực tiễn và đời sống nhân dân trong công tác an sinh xã hội, Mặt trận các cấp trong tỉnh đã góp phần tích cực vào công tác giảm nghèo bền vững, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới, tăng sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng bền chặt. Bên cạnh đó còn sáng tạo trong thực hiện các chương trình an sinh xã hội, như chương trình “Mẹ đỡ đầu - Tiếp sức cho em”, mô hình “Dân vận khéo”,…

-  Tình hình thực hiện các chính sách an sinh xã hội

Trong năm tỉnh đã thực hiện kịp thời việc tặng quà của Chủ tịch nước, của tỉnh, huyện nhân dịp Tết Nguyên đán 2023 và kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ cho trên 25.000 người có công, với số tiền trên 38 tỷ đồng (bao gồm: quà Chủ tịch nước trên 15 tỷ đồng, quà tỉnh trên 15 tỷ đồng, quà cấp huyện/xã và các nhà hảo tâm trên 8 tỷ đồng). Lãnh đạo tỉnh thăm 13 cơ sở trợ giúp xã hội và các Hội Người khuyết tật với tổng kinh phí 45,5 triệu đồng. Sở Lao động - Thương bình và Xã hội tỉnh đã tổ chức thăm đối tượng ốm đau, người lang thang cơ nhở (25 suất) vào tối 30 Tết Nguyên đán với tổng kinh phí 25 triệu đồng; quà xã hội hóa hỗ trợ 4.309 suất quà cho người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em với tổng số tiền gần 2,388 tỷ đồng;

Hưởng ứng phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, Ủy ban MTTQVN các cấp cùng cấp ủy, chính quyền địa phương đã nỗ lực triển khai nhiều hoạt động ý nghĩa, thiết thực dành cho người nghèo, góp phần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội tại địa phương. Nhân dịp tết Nguyên đán, quà tặng của tỉnh cho 12.847 hộ nghèo với tổng kinh phí: 12,847 tỷ đồng; các huyện thăm và tặng 9.345 suất quà cho người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em và các đối tượng khác với tổng số tiền hơn 3,823 tỷ đồng; các xã thăm và tặng 778 suất quà cho người nghèo, người cao tuổi, trẻ em với tổng số tiền 240 triệu đồng; 131 cụ tròn 100 tuổi được Chủ tịch nước tặng Thiệp chúc thọ và 1.340 cụ tròn 90 tuổi được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Thiếp chúc thọ với tổng kinh phí 995,45 triệu đồng. 100% hộ nghèo trên địa bàn tỉnh đều được nhận quà (có hộ được nhận từ 2-3 lượt quà), nhiều địa phương đã phủ kín quà cho 100% hộ cận nghèo.

Tình hình hỗ trợ gạo tại địa phương: Nhân dịp Tết Nguyên đán năm 2023, UBND tỉnh phân bổ 1.241.580 kg gạo của Chính phủ để hỗ trợ cứu đói cho Nhân dân.

Khái quát lại, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động khó lường, không thuận lợi, nhưng KT-XH năm 2023 của tỉnh Quảng Bình đã đạt được kết quả tích cực ở hầu hết các ngành, lĩnh vực,... Bên cạnh những kết quả đạt được, KT-XH của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế: Kinh tế của tỉnh không có nhiều dư địa để duy trì mức tăng trưởng cao; hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế. Thu ngân sách chưa bền vững, các khoản thu từ đất chiếm tỷ trọng lớn; cơ cấu thu ngân sách chưa đồng đều giữa các khoản thu. Quy mô sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp còn nhỏ; nhiều dự án đầu tư phát triển công nghiệp hiện nay đều chậm tiến độ so với chủ trương đầu tư được phê duyệt; cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn hạn chế, nhất là các điểm mua sắm, vui chơi, giải trí,…

Trong thời gian tới, tình hình thế giới thế giới diễn biến vô cùng phức tạp, không thể lường trước Tình trạng lạm phát cao tiếp tục kéo dài ở nhiều quốc gia, thị trường tài chính, tiền tệ của các nước lớn tiềm ẩn rủi ro, dự báo lãi suất cao hơn và tín dụng thắt chặt do khủng hoảng ngân hàng sẽ gây tổn thương lớn hơn cho kinh tế toàn cầu.

Năm 2024, dự báo KT-XH của tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: tái cơ cấu các ngành kinh tế còn chậm, chất lượng, hiệu quả còn thấp, thu ngân sách chủ yếu phụ thuộc vào thu tiền sử dụng đất trong khi thị trường bất động sản đang gặp khó khăn; giá xăng, dầu và nhiều nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, đời sống của một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn,... Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, Cục Thống kê đề xuất một số giải pháp sau đây:

Một là, tập trung chỉ đạo, triển khai kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân đúng thời vụ; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch bệnh; tổ chức giám sát, phát hiện sớm, kịp thời cảnh báo và xử lý triệt để các ổ dịch mới phát sinh, không để lây lan diện rộng. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, phòng chống thiên tai, cháy rừng; ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước. Tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chính sách nhằm khuyến khích ngư dân khai thác hải sản vùng biển xa, tăng thời gian bám biển; tăng cường theo dõi, chỉ đạo công tác nuôi trồng thủy sản, áp dụng đúng quy trình nuôi và các quy định, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường để hạn chế dịch bệnh; khuyến khích đa dạng đối tượng nuôi có giá trị kinh tế; tăng cường công tác quản lý chất lượng giống nuôi, thức ăn và các chất cải tạo môi trường; tập trung sản xuất giống tại chỗ, dịch vụ giống có nguồn gốc, đảm bảo chất lượng.

Hai, tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo. Tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp tập trung hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có, các dự án mới đầu tư đi vào sản xuất ổn định, khai thác tốt công suất thiết bị và hiệu quả đầu tư nhằm tạo bứt phá và động lực tăng trưởng mới; đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án công nghiệp lớn đang triển khai; tiếp tục kêu gọi các dự án phát triển công nghiệp có giá trị cao. Các cấp, các ngành quan tâm đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; đẩy nhanh tiến độ lựa chọn nhà thầu tư vấn, nhà thầu thi công xây dựng các công trình, bảo đảm các dự án hoàn thành đúng tiến độ, đặc biệt là các dự án quan trọng, trọng điểm, các dự án chuyển tiếp; tập trung vào công tác giải phóng mặt bằng và triển khai các thủ tục sau đấu thầu để triển khai thi công các dự án.

Ba là, thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển thương mại trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam”, ưu tiên lựa chọn sử dụng hàng hóa và dịch vụ do các doanh nghiệp trong tỉnh sản xuất và cung cấp. Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu đặc trưng cho các sản phẩm hàng hoá chủ lực của tỉnh; phát triển các phương thức bán lẻ mới, trong đó chú trọng phương thức bán lẻ đa kênh đáp ứng yêu cầu và xu hướng mua sắm của người tiêu dùng. Tiếp tục theo dõi và thực hiện có hiệu quả các giải pháp bình ổn, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc. Tăng cường thực hiện hoạt động kích cầu du lịch, truyền thông, quảng bá và xúc tiến du lịch; xây dựng sản phẩm du lịch mới; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong du lịch; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành du lịch. Đẩy mạnh chỉnh trang đô thị, sửa sang lại hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng, đảm bảo vệ sinh môi trường để phục vụ tốt nhất cho du khách. Tăng cường giám sát thực hiện kê khai, niêm yết giá tại các nhà hàng, cơ sở lưu trú,... để giữ hình ảnh đẹp về Quảng Bình.

Bốn, tiếp tục nâng cao hiệu quả sử dụng, khai thác tốt nguồn lực tài chính từ đất đai, tài nguyên. Quản lý, kiểm soát tình trạng tăng giá đất bất thường, minh bạch thông tin, hạn chế tình trạng đầu cơ đất đai, ngăn chặn hiện tượng tung tin đồn thổi, đầu cơ nhằm đẩy giá đất để trục lợi bất hợp pháp. Rà soát và kiên quyết thực hiện thu hồi đất đối với các trường hợp giao đất, cho thuê đất đã quá thời hạn quy định nhưng chưa triển khai hoặc chậm tiến độ. Tập trung giải quyết các vướng mắc về giải phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm của tỉnh.

Năm là, tiếp tục siết chặt kỷ luật tài chính - ngân sách nhà nước; tăng cường công tác quản lý thu, chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế và phát triển nguồn thu, tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính về thuế; rà soát, cắt giảm các loại thuế, phí, lệ phí phù hợp. Tổ chức điều hành dự toán ngân sách nhà nước chủ động, chặt chẽ, triệt để tiết kiệm các nội dung chi, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách. Nâng cao chất lượng tín dụng; ưu tiên tập trung cho vay phát triển, mở rộng sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục rà soát, cắt giảm các loại thuế, phí, lệ phí phù hợp. Tăng cường kỷ luật tài chính - ngân sách Nhà nước; tăng thu, tiết kiệm chi. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát thị trường, giá cả, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất, đời sống như xăng, dầu,...

Sáu là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án Chuyển đổi số, chính quyền điện tử và đô thị thông minh. Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; thực hiện nghiêm quy chế làm việc, kỷ luật phát ngôn; công khai, minh bạch, tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng. Ngăn chặn, triệt phá các thông tin xấu, sai sự thật gây hoang mang dư luận.

Bảy là, tiếp tục củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; tăng cường công tác quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới, kết hợp hài hòa giữa phát triển KT-XH với quốc phòng, an ninh. Quyết liệt, kiên quyết trấn áp, triệt phá tội phạm ma túy, tội phạm hình sự nghiêm trọng, tội phạm tín dụng đen, tội phạm công nghệ cao,... Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, đảm bảo an toàn phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; triển khai các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và phấn đấu kiềm chế, làm giảm tai nạn giao thông; tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi, an toàn cho các doanh nghiệp, người dân an tâm sản xuất, kinh doanh./.

[1] Nguồn: Báo cáo số 615/BC-CNTY ngày 14/12/2023 của Chi cục Chăn nuôi và Thú y

[Trở về]